Có thể nói, hiếm có cuốn sách nào lại đầy đủ tư liệu về các nhà văn nước ta thời chống Pháp chống Mỹ như cuốn: “Nhà văn và chữ Tình gởi lại” (NXB Hội Nhà văn – 2022) của GS.TS – nhà văn Trình Quang Phú. Với gần 300 trang in (khổ 14×20), “Nhà văn và chữ Tình gởi lại” là bức tranh toàn cảnh tập hợp hầu hết các gương mặt nhà văn, nhà thơ, văn nghệ sĩ – những người đã góp phần đặc biệt tạo nên diện mạo nền văn học cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Thầy Trần Quốc Vượng có vài lần tới nói chuyện với lớp Viết văn Nguyễn Du khóa 6 (1998-2002) chúng tôi. Không thể ngờ chỉ vài năm sau, ngày 8 tháng 8 năm 2005, thầy đã sớm rời cõi tạm. Thấm thoắt đã gần hai mươi năm không được nghe thầy nói trực tiếp, nhưng những lúc cần tìm hiểu điều gì, chúng tôi vẫn còn băng ghi âm, ghi hình của thầy, bây giờ thì tìm luôn trên YouTube nên luôn cảm thấy thầy vẫn thật gần, vẫn bên cạnh chúng tôi. Điều đó đã cho chúng tôi không chỉ sự tự tin mà còn là lòng tự trọng, sự phấn đấu tự học, tự thực hành từ chính tấm gương của thầy.
Mỗi khi cầm tờ báo Văn nghệ - cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam - số mới phát hành, tôi thường tìm đọc mục Tiếng nói nhà văn trước tiên.
Với bản năng của một con chó trung thành, nhìn thấy chủ, Phèn mừng rỡ lết lết người đến gần chân ông Thành, cố gắng sủa từng tiếng yếu ớt.
Trần Văn Đừng, thương binh 1/4, trong cuộc chiến tranh chống bọn Pôn Pốt xâm lược biên giới phía Tây nam nước ta năm 1977, anh sinh năm 1951.
Ngày cha tôi mất tôi còn bé cỏn con, mẹ tôi buồn phiền rồi đổ bệnh thường xuyên đau ốm, từ đó mọi công việc gia đình đềù do một mình chị tôi gánh vác. Đang tuổi dây thì chị tôi vừa đẹp người, đẹp nết lại hiền ngoan nên đã có nhiều trai làng mối mai dạm hỏi, nhưng vì còn phải chăm lo cho mẹ già và đứa em nhỏ dại nên chị đều từ chối. Thế rồi thời gian cứ trôi dần theo năm tháng, mẹ tôi lo lắng vì tuổi con gái có thì nên đã lựa lời khuyên nhủ, như mưa lâu thấm đất, dần dà chị tôi cũng nghe theo lời mẹ và chấp nhận kết hôn với một anh bộ đội cùng làng, nhưng thời gian chung sống bên nhau của anh chị chả được bao nhiêu thì anh đã tình nguyên lên đường, cùng lớp lớp thanh niên ngày ấy “sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, ở lại quê nhà chị đã thay mẹ chăm nom chỉ bảo cho tôi những điều hay lẽ phải. Rồi ngay qua ngày đêm lại thâu đêm, thời gian là bạn đồng hành với chị trong mọi nỗi lo toan và khác khoải mong chờ ngày nước nhà thống nhất, để anh được trở về đoàn tụ, ước mơ đó cũng là động lực để chi tôi gắng sức đảm đang việc nhà việc nước và nuôi tôi ăn học trưởng thành…