TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Bản hùng ca anh “Bộ đội Cụ Hồ”: Đoàn Thanh Phương - người Cộng sản đối chọi với bao gông cùm đế quốc

Bản hùng ca anh “Bộ đội Cụ Hồ”: Đoàn Thanh Phương - người Cộng sản đối chọi với bao gông cùm đế quốc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-05 10:10:56
mail facebook google pos stwis
1763 lượt xem

CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

PHẠM BÁ NHIỄU

Về tỉnh Vĩnh Long nhiều lần, song tôi biết anh Đoàn Thanh Phương trong một lần, được Huyện ủy Trà Ôn mời dự buổi báo cáo chuyên đề Nghị quyết Đại hội VII Tỉnh Đảng bộ Vĩnh Long, khi còn công tác tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long. Lần ấy, sau giờ giải lao Bí thư Huyện ủy Trà Ôn - người chủ trì buổi họp, có mời anh Đoàn Thanh Phương vào uống nước, nói chuyện và giới thiệu là một tù nhân bộ đội, một chiến sĩ Công sản đã đi từ nhà lao Vĩnh Long, nhà tù Cần Thơ, đến nhà tù Phú Quốc, Côn Đảo… mà kẻ địch không hề làm gì nổi trước ý chí của anh.


Anh Đoàn Thanh Phương & thượng sĩ Nhất Nhu - Trần Văn Nhu (ảnh tư liệu nhà tù Phú Quốc).

Biết anh Đoàn Thanh Phương là một chiến sĩ kiên cuờng trong lao tù của Mỹ - ngụy, tôi đã mời anh nhiều lần đến kể chuyện cho các hội nghị báo cáo viên của tuổi trẻ hay của Liên Đoàn lao động tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức, và anh rất vui vẻ nhận lời; anh đã kể bằng chính cuộc đời thật của mình, chính những nhân chứng mà anh từng gặp, qua cả mấy năm tù đày của các nhà tù Mỹ-ngụy Sài Gòn, không thể nào khuất phục được các anh.

Anh Thanh Phương quê tại vùng đất Vĩnh Xuân - Trà Ôn, song lại hoạt động điệp báo nội tỉnh từ rất sớm, từ năm 1960. Lần đó, anh kể, khi anh được cử làm Trưởng trạm y tế xã Vĩnh Xuân (do tổ chức cài cắm để che mắt địch), trong một lần vượt qua các chốt kẻ địch tìm mua thuốc về trạm, anh đã bị chúng ném lựu đạn làm anh ngất đi, rồi bị chúng bắt giam, đày vào nhà lao Vĩnh Long (lúc đó đóng tại P.1 bây giờ). “Đó là ngày 03-6-1966, địch đưa tôi vào nhà lao Vĩnh Long, sau đó ngày 28-5-1967, chúng đưa sang nhà tù Cần Thơ, sau cùng, ngày 28-5-1968, chúng đưa tôi cùng 2000 chiến sĩ ta mà chúng bắt giam, đày ra nhà tù Phú Quốc” - anh nhấn mạnh.

Năm 1998, Hội Văn học Nghệ Thuật tỉnh Vĩnh Long tổ chức gần cả tuần lễ thực tế và sáng tác cho hơn 20 hội viên, các nhà văn, nhà báo, nhà nhiếp ảnh của tỉnh, đi thực tế tại đảo Phú Quốc và Nhà tù Phú Quốc, dầu lúc này Nhà tù Phú Quốc qua bao năm tháng sau ngày giải phóng miền Nam, ít có sự chăm lo, đã bị hao mòn các cơ sở, kể cả các khu từng đối chất, gom nhốt, tra tấn người tù là các chiến sĩ ta. Lần ấy, chúng tôi rất hân hạnh được anh Thanh Phương, cùng đi với đoàn và trong gần cả tuần lễ đó, anh là người duy nhất từng ở tù lâu năm tại Phú Quốc, đã giúp tất cả mọi thành viên hiểu được thế nào là tra tấn ghê gớm tù nhân ta tại Nhà tù Phú Quốc, đối với các chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ, những đảng viên trung kiên của Đảng.

Và cũng lần ấy, anh là người biết rõ nhất nơi ở khu nhà và vườn cây của thuợng sĩ ngụy Sài Gòn Nhất Nhu (Trần Văn Nhu), quê ở Đồng Tháp, từng là đối tượng gan lỳ nhất, hiểm nguy nhất cho mỗi người tù tại Phú Quốc. Bằng các hình thức tra tấn bẽ rang, búng vào bộ hạ người tù... Trưa đó, trời hơi nắng nhẹ gió đảo thổi vào thật êm, trưa đó, khi ngồi trên xe xuống nhà ông Nhất Nhu, tôi chưa thể hiểu ra cách tra tấn kiểu này, mà sao bộ đội ta chịu đựng nổi. Anh Thanh Phương nói gọn lỏn: Vào thì chú biết, nói là tra tấn bằng bẻ răng, tức là dùng chiếc kìm sắt to tướng, tay ông ta cầm và nhằm vào mỗi chiếc răng của người chiến sĩ, mà bẻ từng cái, cho máu mỗi chiến sĩ cứ phun ra… Trong hơn 10 năm liền, tay thượng sĩ Nhất Nhu cứ tra tấn ghê rợn người như thế, song không một tù nhân nào, người chiến sĩ bộ đội ta nào, phải chịu khuất phục, khai báo theo ý đồ của chúng.

Vào đến ngôi nhà thượng sĩ tra tấn tù nhân khét tiếng Nhất Nhu, nằm khuất sau khu vườn cách con đường chính từ Bắc đảo đi Nam đảo vài trăm mét. Kẻ tra tấn tù nhân khét tiếng Nhất Nhu, dáng thấp, người mập, có con mắt như nhằm dò xét với từng người. Anh Thanh Phương, nói cho ông Nhất Nhu: “Anh yên tâm, hôm nay các nhà báo, nhà văn đến để tìm hiểu về các cách đối xử với tù nhân, cho những người chưa từng biết, để trong cách viết của họ, mà được hiểu thêm”.

Tôi biết phải cố gắng, kìm lòng mình quá mức, thì anh Thanh Phương mới nói được với các nhà báo, nhà văn của tỉnh, khi chính mình đã từng bị kẻ ngồi ngay trước mặt đây, đã bẻ 12 lần gãy từng chiếc răng của mình và bao đồng đội khác.

Lần ấy, dù trời giữa nắng trưa, trời xứ đảo có gió mát, song ai cũng toát mồ khi nghe một kẻ tra tấn tù nhân cộng sản nổi tiếng nhất Nhà tù Phú Quốc ngồi nói chuyện bẻ gãy từng chiếc răng của bạn tù anh Thanh Phương. Đến nổi sau khi tra tấn xong, nhiều chiến sĩ đã ngất xỉu tại khu tra tấn, để bạn tù phải ra cõng về khu giam.

Cứ 4 năm dài đằng đẵng, anh Thanh Phương và bao bạn tù là các chiến sĩ bộ đội ta, cứ ngày mỗi ngày được kẻ sát nhân thượng sĩ Nhất Nhu, “cho nếm” dùi cui, nếm những chiếc răng bị bẻ gãy của từng chiến sĩ là tù nhân nhà tù. Máu lạnh tanh trước cái chết con người, đã chớm hết cả con người này, khi ông ta cứ thản nhiên kể cách tra tấn rất ư kiểu Mỹ này, mà không hề có một sự xót thương tình người với người, cùng đồng loại, cùng dân tộc.

Lần ấy, anh hùng Đoàn Thanh Phương nói, chính anh bị kẻ máu lạnh này bẻ gãy răng đến 12 lần, còn cách tra tấn bằng dùi cui, thì không thể nào nhớ hết. Song, các anh vẫn không một ai, khai ra với chúng nữa lời về cơ sở của đơn vị. Dữ nhất là đêm mùng 8 Tết Kỷ Dậu, năm 1969, anh Thanh Phương và 4 bạn tù vượt ngục, tính vượt ngục rồi đi bằng đường biển trở về đất liền, thì bị chúng phát hiện, bắt vào, tra tấn bằng cách vừa nhổ răng anh, vừa rút móng tay, móng chân… những cách tra tấn, mà nay ngồi trước mặt người lính hiền lành như đất, tôi cũng không thể ngờ chúng đã tra tấn một tù nhân chúng ta, theo kiểu còn hơn cả thời trung cổ như thế. Cứ thế, cả 4 lần vượt ngục Phú Quốc của anh và đồng đội, khi bị chúng phát hiện đều được “nếm” đủ mùi tra tấn từ tay kẻ sát nhân thượng sĩ Nhất Nhu, mà chúng tôi được bắt gặp trong lần thực tế Nhà tù Phú Quốc lần đó.

Lửa và máu trong tim anh luôn tin vào Đảng, tin vào cuộc kháng chiến thành công, đã giúp các anh đứng vững. Nợ máu phải trả bằng máu, ngày 21-01-1971, anh Thanh Phương cùng phối hợp 2 chiến sĩ khác đã bắt tên cảnh sát ác ôn Lê Ba phải đền tội. Sau đó, chúng đưa 3 người trong vụ việc này ra trước tòa án binh của chúng tại TP. Cần Thơ, kết án anh Trần Văn Minh (quê Tiền Giang) 15 năm tù, anh Trần Minh Quang 20 năm tù, còn anh thì chúng kết tội tù tử hình và đày đi Côn Đảo từ năm 1971. Cho đến ngày trao trả tù binh, ngày 07-4-1974 tại TP Biên Hòa - Đồng Nai, các anh mới được trao trả.

Hòa bình trở về, anh được đơn vị đón về quê hương Vĩnh Xuân - Trà Ôn, cùng an dưỡng mấy tháng liền mới đủ sức khỏe phục vụ tiếp trong quân đội, khi đó anh là là Chính trị viên đại đội 2, của Tiểu đoàn Tây Đô, thuộc Quân khu 9.

Sau này, sức khỏe giảm đi, anh được đơn vị cho chuyển ngành về làm việc tại Phòng Nông nghiệp huyện Trà Ôn, rồi nghỉ hưu trước tuổi do sức khỏe bị tra tấn trong lao tù giảm sút, từ năm 1979. Năm 1985, vinh dự đến với người chiến sĩ Cộng sản là anh đã được Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang.

Lần về Vĩnh Long gần đây, đến thăm anh tại Phường 4 - TP Vĩnh Long, chúng tôi mới biết, sau khi nghỉ hưu, anh về lại quê nhà, rồi lên TP Vĩnh Long sống cùng với các con. Chúng tôi rất mừng cho anh, đã nuôi dạy các con học hành rất chu đáo. Nay một con trai là Thiếu tá, Chính ủy Trường dạy nghề số 9, Quân khu 9, đang noi gương cha tiếp tục phục vụ trong quân đội, còn 2 con gái anh nay đã là bác sĩ, đang công tác tại tỉnh nhà. Chú Nguyễn Văn Năm, Chi hội phó Chi hội Cựu chiến binh (CCB) Khu phố 4, Phường 4 nói với chúng tôi: “Anh Hai Phương là một CCB rất gương mẫu, khi anh về TP Vĩnh Long, được chính quyền hỗ trợ nền đất và anh tự làm quán bánh bún, để nuôi dưỡng 3 con ăn học thành tài. Mỗi hội viên CCB khu phố chúng tôi đều lấy gương anh, để mà nuôi dạy con cái”.

Chia tay người tù nhân Cộng sản, người 4 lần tổ chức cho anh em bạn tù vượt ngục tại Nhà tù Phú Quốc, chúng tôi cũng cầu chúc cho anh luôn giữ được sức khỏe, để cùng với mỗi bạn tù Phú Quốc khi trở về để cùng sống an lành sau những trận đòn thù trong nhà tù của đế quốc, chia sẻ cùng bà con lối xóm, sống chan hòa trong thanh bình của một TP Vĩnh Lon g- TP Anh hùng, mà xương máu các anh đã từng cống hiến.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm