TIN TỨC

Đêm Tháng Giêng - Tản văn Trần Bảo Trân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-07-14 00:29:58
mail facebook google pos stwis
845 lượt xem

Ngày anh cưới chị, tôi còn nhỏ. Gần bảy thập kỷ trôi qua, tôi vẫn còn nhớ như in, ngôi nhà lợp rạ, vách đất của chúng tôi có khách là một người lính. Anh bận bộ quân phục màu cỏ úa với chiếc mũ mềm có ngôi sao lấp lánh. Ngày chị đi lấy chồng, tôi tiễn chị ra cánh đồng, cuối bờ tre gai thường ngày ríu rít tiếng chim. Cầm tay tôi, chị khóc. Em ở nhà nhé. Nếu rảnh chị sẽ về chơi với em. Mắt nhoà, tôi cố giữ không để lệ rơi.


Anh ở với chị được vài ngày rồi về đơn vị. Chiến tranh leo thang ra Miền Bắc. Hằng ngày từng tốp máy bay Mỹ ầm ầm như xé nát bầu trời. Đôi khi, ném không hết, chúng trút bom xuống cánh đồng làng tôi trước khi hạ cánh nơi hạm đội đậu ngoài biển Đông. Chiến trường khốc liệt, năm 1967 đơn vị anh hành quân vượt Trường Sơn vào Nam Bộ.

Một buổi chiều đi học về, tôi thấy mắt chị đỏ hoe, đang ngồi nói chuyện với mẹ. Chị bảo, mới đi thăm anh về. Tối qua, anh cùng đơn vị hành quân lên tàu vào Vinh rồi từ đó đi bộ qua Hà Tĩnh, Quảng Bình… Tôi chưa đặt chân đến những vùng đất ấy. Nhưng hằng ngày nghe đài, tôi biết đó là vùng đất lửa. Nơi ấy, sự sống và cái chết chen lấn nhau. Sống đấy mà không biết chết lúc nào. Lo cho anh rể, tôi càng thương chị gái. Lấy chồng gần hai năm, nhưng chưa thấm hơi chồng đã phải biền biệt xa. Mẹ tôi bảo, chị lên thăm anh mấy ngày đêm, chẳng biết có “tin vui“ gì không?


Tháng 4 năm 1970, chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp 3, tôi nhập ngũ. Sau mấy tháng huấn luyện cấp tốc, đơn vị tôi hành quân vào chiến trường. Đầu năm 1971, chúng tôi đến căn cứ huấn luyện bổ sung cho chiến sỹ mới thuộc Công trường (Sư đoàn) 5 trú quân ở Suối Dù sát biên giới Việt Nam và CPC. Nghe thủ trưởng nói, từ đây về núi Bà Đen (Tây Ninh) không xa.

 


Vào chiến trường, lạ nước lạ gió, lính trẻ ai cũng ”dính“ sốt rét. Tôi bị sốt cao nhiều ngày. Bỏ ăn. Uống nhiều thuốc ký ninh, người như kẻ mộng du. Có ngày nổi điên, tôi đeo ba lô lang thang dọc bờ suối. Tóc bắt đầu rụng và da xanh như màu lá . Một đêm nọ tôi sốt cao, lên cơn ác tính, đồng đội phải khẩn cấp khiêng vào bệnh xá mang tên K30 đóng quân gần đó. Mấy ngày đêm mê man, tỉnh dậy, Nùng, một bạn cùng quê nằm viện trước tôi báo tin. “Mày có biết ai là Nguyễn Kim Chung, dân xã Hải Long không”?. Tôi giật mình. Không lẽ đây là anh rể? Dù đi lại chưa vững, Nùng đã dìu tôi xuống hầm của hành chính bệnh viện. Tôi nhận ra anh rể. Hai anh em ôm nhau, không cầm được nước mắt. Tôi nghe anh rể nói, anh đang làm quản lý hậu cần của bệnh viện. Có lẽ thế, những ngày điều trị tại đây, tôi không chỉ được sưởi ấm bằng tình cảm gia đình mà còn được bồi dưỡng sức khỏe bởi thuốc men, thực phẩm hiếm hoi mà không phải ai lúc đó cũng có được.


Đầu năm 1972, ta mở chiến dịch mới, từ tiểu đoàn 31 tôi được lệnh điều xuống đơn vị chiến đấu- Trung đoàn 174 (Công trường 5) tham gia giải phóng Lộc Ninh rồi tiến về đồng bằng sông Cửu Long. Tôi xin phép đơn vị đến chia tay anh rể. Là người từng trải chiến trường, đêm chia tay, anh đã nói với tôi nhiều chuyện. Tôi nhớ nhất là những kinh nghiệm của anh khi ở mặt trận. Và, hình như anh biết, chia tay khó có ngày gặp lại, nên bịn rịn, không muốn dứt.

Kết thúc chiến tranh, đầu năm 1976, tôi về phép thăm nhà. Ấy cũng là lúc anh Chung đã xuất ngũ về làm việc tại một công ty xây dựng công trình thủy nông của huyện. Sau hơn 10 năm về nhà chồng, chị tôi sinh con đầu lòng. Tôi còn nhớ giáp Tết nguyên đán năm ấy, tôi ra trạm xá “cáng“ chị tôi và cậu bé sơ sinh trên chiếc võng dù, về nhà. Đứa con đầu lòng của anh chị nay đã trưởng thành. Kế tục con đường của cha, cháu vào bộ đội và hiện đang làm việc tại một bệnh viện trung ương quân đội mà thời thành phố giải phóng (30/4/1975), cha cậu đã tiếp quản . Cũng như bao người lính sau chiến tranh, anh rể tôi bươn chải, mưu sinh. Và, có biết bao câu chuyện về anh mà bài viết ngắn vĩnh biệt người đi xa này không kể siết. Chỉ biết anh đa đoan, đào hoa, luôn khát khao cái mới. Và như chúng ta đã biết, có bao nhiêu thế hệ đến với cái mới, họ đã phải trả giá như thế nào ? Điều quan trọng là cái mới ấy thuộc về ai, có đi quá xa quan niệm của người đang sống?!


Do di chứng chiến tranh, anh ngã bệnh đã hơn 3 năm nay. Chừng ấy thời gian, mỗi lần về quê tôi đều đến thăm và chia sẻ cùng anh – người anh – người đồng đội một thời. Anh nằm mê man trên giường, tỉnh dậy, tôi hay đùa: “Đồng chí Nguyễn Kim Chung!“. Anh cố gượng trả lời: “Có tôi đây”. “Đồng chí đã sẵn sàng trở lại chiến trường Miền Đông Nam Bộ chưa”? Anh rể tôi cố lấy giọng: “Báo cáo, tôi đã sẵn sàng”!
Sau Tết Canh Tý vừa rồi, đến chào anh để vào Sài Gòn, em trai tôi- Đại tá Trần Văn Toản cũng hỏi thế, anh cố lấy hơi trả lời: “Tôi …tôi đã …sẵn sàng“.


Và, bây giờ, quả thực anh không những đã sẵn sàng mà còn bay cao, bay xa đến tận những cánh rừng “Miền Đông – gian lao mà anh dũng”. Anh nằm đó trên chiếc giường còn thơm mùi gỗ mà các con anh mới mua, trong tiếng kinh niệm Phật dịu êm phát ra từ chiếc radio đặt đầu giường . Chị gái tôi như tàu lá héo ngồi bên anh, cạnh bát cơm lồng, trái trứng luộc và khói hương nghi ngút.
Tôi mở tấm khăn che mặt, nhìn anh lần cuối. Tôi vẫn như thấy anh mỉm cười và dõng dạc nói: “Có tôi đây. Đã sẵn sàng…” .


Tôi vẫn như thấy anh nơi chiến trường Miền Đông Nam Bộ năm nào – nơi tôi và đồng đội đã trải qua những tháng ngày cam go giữa sống và chết, trong đó có nhiều người như Nùng, như Thiềng, như Thạc… đã mãi mãi đi xa .
Nhân vô thập toàn. Các cụ xưa dạy thế. Anh rể tôi nằm xuống, cũng như mọi người, mang theo cả tiếng bấc, tiếng chì. Không sao ! Mỗi người có cách tiếp cận của riêng mình. Nhìn đồng đội, bạn bè, bà con như dòng sông không ngừng chảy đến tiễn biệt anh, tôi tin nơi chín suối, anh cũng thanh thản yên nghỉ trong vòng tay của tổ tiên, anh em và đồng đội./.

T.B.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm