TIN TỨC

Đêm trắng ở Thăng Long – Truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Thị Việt Nga

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-06-25 22:59:15
mail facebook google pos stwis
7 lượt xem

Trăng đã lên. Cả kinh thành Thăng Long chìm trong ánh sáng nhạt vàng như sương khói. Trăng vắt qua những mái ngói hoàng cung cong cong, rọi xuống nền gạch Bát Tràng bóng loáng, đổ bóng lên những dãy hành lang thâm nghiêm lặng lẽ. Dưới ánh trăng ấy, kinh thành như hiện ra nửa thực nửa mộng, vừa rực rỡ huy hoàng, vừa cổ kính u tịch. Mọi âm thanh dường như tan vào bóng tối. Chỉ còn gió nhè nhẹ lùa qua lá ngô đồng, thì thầm như tiếng của thời gian đang trôi.

Nguyễn Trãi đứng lặng bên hiên điện, trong bóng rọi của vầng trăng mười sáu tròn vằng vặc. Mắt ông không nhìn trăng, mà như đang nhìn vào một miền ký ức xa xăm đã phủ đầy rêu mộng.
Ông nhớ Côn Sơn.
Ông nhớ ánh trăng sân chùa năm ấy. Ánh trăng dát vàng trên mái ngói rêu phong, trên rừng thông rì rào gió, trên rừng trúc thẳng tắp như gươm dựng. Trong ánh trăng huyền hoặc ấy, cậu bé Trãi vừa tròn năm tuổi, áo vải chân trần, ngồi nép bên gốc đại cổ thụ hoa rụng trắng sân chùa mà say sưa lắng nghe ông ngoại Trần Nguyên Đán bình thơ cùng các vị sư và nho sinh quanh vùng. Giọng ngâm thơ sang sảng, lúc khoan lúc nhặt, át cả tiếng gió núi. Có những đêm trăng sáng như ban ngày, các cụ kê án thư ra sân chùa, bút lông bay lượn trên giấy dó, đố thơ đối câu, cười sảng khoái giữa đất trời tĩnh lặng.
Ông nhớ, ngày ấy mình hay hỏi dồn, nào là “Sao chữ Hán lại nhiều thế?”, nào là “Trăng có biết nghe thơ không?”, và có lần, cậu bé Trãi đã từng bạo gan hỏi ông ngoại:
– Ông là người giỏi như thế, sao không vào triều làm quan giúp vua? Cháu thấy trong sách cổ ông đọc đều nói những người giỏi thì ra làm quan giúp nước, giúp dân.
Ông ngoại không giận, chỉ cười hiền rồi xoa đầu cháu:
– Làm quan đâu phải vinh quang. Giữ được thanh danh, ấy mới là điều khó hơn cả. Kẻ sĩ nên biết lúc nào nên vào, lúc nào nên ra. Cái đạo làm người, cốt ở tiết tháo, không phải ở áo mũ cân đai.

Những lời ấy, Nguyễn Trãi đã đem theo suốt cả đời mình, dù ngay lúc ấy ông không hiểu hết. Nhưng đêm nay, đứng giữa kinh thành hoa lệ, ông chỉ ước mình lại là cậu bé năm nào, ngây thơ, vô tư, ngày ngày theo chân ông ngoại đi khắp núi rừng Côn Sơn thân thuộc, trèo núi hái sim, ngâm thơ dưới trăng, không vướng bụi bặm quan trường.  Ông nhắm mắt lại, trong khoảnh khắc, mọi thứ như tan biến. Chỉ còn trăng, trăng của Côn Sơn, trăng của một thời yên ả, trăng của tuổi thơ ngát hương rừng, sống hồn nhiên giữa sách bút, nghiên mực và đạo lý.
Nhưng rồi một ánh trăng khác hiện lên trong tâm trí ông: trăng Lam Sơn.
Đó là ánh trăng của những đêm núi rừng hun hút, của cỏ lau rì rào trong gió, của từng vạt rừng lặng phắc như nín thở chờ bước chân giặc. Nguyễn Trãi nhớ như in những đêm tháng Chạp, khi sương giá bám trên lưỡi gươm chưa ráo máu, nghĩa sĩ vẫn rèn binh, luyện tập dưới ánh trăng nhợt nhạt. Trong yên lặng, chỉ còn tiếng mài gươm lay động cả bóng trăng. Dưới ánh trăng rừng Lam Sơn, những những binh sĩ gầy gò vì nếm mật nằm gai đã nhiều năm đằng đẵng, nhưng ánh mắt họ sáng lên như có lửa thiêng, như những vì sao sáng nhất. Và có những đêm trăng, ông đọc thơ sang sảng trong tiếng mài gươm. Những vần thơ khích lệ, động viên quân sĩ. Những vần thơ xua tan mỏi mệt, hướng đến ngày ca khúc khải hoàn…
Có đêm, trăng treo lơ lửng trên đỉnh núi đá, soi bóng một mình Lê Lợi đứng lặng dưới gốc lim cổ thụ, hai tay chắp sau lưng, ánh mắt dõi về hướng Thăng Long. Không một lời nào thốt ra, nhưng Nguyễn Trãi hiểu: vị chủ tướng đang lo cho vận nước, và đang thương cho thân phận của những người lính đã theo mình suốt bao tháng năm đói rét. Khi ấy, ông thường bước ra, cùng Lê Lợi ngồi xuống phiến đá phẳng dưới gốc lim, thì thầm bàn thế trận, luận đạo dụng binh, tính chuyện lấy lòng dân và khích lệ tướng sĩ.
Cũng có đêm, trong căn lán tranh thô sơ bên bìa rừng, ánh trăng tràn vào ô cửa tre, đổ bóng đan xen lên tờ giấy thảo sớ. Nguyễn Trãi cúi mình, bút lông tung bay, mực chưa kịp khô đã viết đến trang khác. Thư dụ Vương Thông không phải chỉ một lá, mà là hàng chục lá – ngắn có, dài có, có lá mềm mỏng như mưa xuân, có lá đanh thép như gươm giáo. Trăng soi rõ những đêm ông thao thức viết từng chữ, nghiền từng câu, dùng cả trí lẫn tâm để lay động lòng địch mà giảm thương vong cho quân, cho dân.
Có đêm trăng vằng vặc, Nguyễn Trãi cùng một vài tướng lĩnh ngồi bên bếp lửa đã tàn. Có người khẽ ngâm bài thơ cũ, có người kể chuyện nhà, nhưng ai nấy đều chung một niềm thao thức. Rồi giữa khuya, có tiếng trống giặc vọng từ đồn xa, trăng như giật mình, sương như đặc quánh. Lại một đêm nữa núi rừng Lam Sơn không ngủ. Mười năm trận mạc, binh đao. Mười năm ánh trăng Lam Sơn chiếu xuống mái đầu ông và những người cùng chí hướng. Mỗi lần trăng lên là một lần ông nghĩ đến máu đã đổ, đầu đã rơi, nhưng cũng là một lần ông thêm vững lòng: vì dân tộc này đáng để sống chết, và ánh trăng ấy chính là nhân chứng cho khát vọng giành lại giang sơn không gì dập tắt nổi. Đêm nay, đứng giữa Thăng Long, ông thấy trăng tròn mà lạnh. Trăng nơi kinh thành không mang mùi lá rừng, không phản chiếu ánh thép mài, không in bóng những cuộc bàn luận âm thầm dưới tán lim sâu. Trăng ở đây sáng mà buốt, đẹp mà xa, như một người bạn cũ không còn nhận ra nhau giữa bụi son lầu các.
Nguyễn Trãi quay mặt đi. Ông biết: tuy trăng Lam Sơn còn soi trong ký ức, nhưng lòng ông đã không còn thuộc về Thăng Long nữa
Chiều hôm ấy, đức vua  Lê Thái Tổ cho vời ông vào điện. Ngài vẫn khoác hoàng bào, ánh mắt rắn rỏi của người từng chinh chiến mười năm, nhưng trong đáy mắt là nỗi buồn không giấu nổi.
– Khanh từng cùng trẫm đi qua những tháng năm khổ tận cam lai. Nay triều chính ổn định, sao lại muốn rũ áo lui về?
Nguyễn Trãi chắp tay, kính cẩn:
– Thần vốn không màng danh lợi, chỉ mong được sống cùng mây núi. Nay thiên hạ đã yên, lòng thần cũng muốn được yên theo.
– Trẫm đã hai lần can gián, vì tiếc người tài, vì thương người tri kỷ. Nhưng triều đình không phải chốn muốn vào là vào, muốn ra là ra. Trẫm cho khanh một đêm suy nghĩ. Sáng mai, nếu lòng khanh vẫn một mực, trẫm sẽ không ngăn nữa. Nhưng trẫm… tiếc khanh lắm thay.
Nguyễn Trãi không nói gì, chỉ cúi đầu thật thấp. Rồi bước ra khỏi cung điện vàng son, lòng nặng như đeo đá. Giờ đây, ông đang đối mặt với đêm dài nhất cuộc đời mình.

Gió đêm khe khẽ lay những tán ngô đồng. Trăng lên đỉnh trời, ánh sáng trải mỏng như tơ trên từng bậc đá điện Kính Thiên. Cả kinh thành đã chìm vào giấc ngủ, chỉ riêng Nguyễn Trãi còn thức.

Ông trở về phòng riêng – gian thư xá nhỏ trong cung – thắp một ngọn nến dầu, lấy bút lông, trải giấy. Nhưng suốt canh đầu, giấy vẫn trắng, bút vẫn khô, còn lòng ông thì không thể lặng.

Bên ngoài, tiếng trống báo canh từ vọng lâu Tường Quang vang lên ba hồi đều đặn. Mỗi tiếng trống như gõ vào tim ông, nhắc rằng thời gian chẳng chờ ai – và bình minh sẽ tới, đem theo câu trả lời mà ông buộc phải nói thành lời.

Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi Bình Ngô sách tại căn cứ khởi nghĩa Lam Sơn. (Tranh: Hoàng Hoa Mai)

Nguyễn Trãi ngồi xuống chiếu, khoanh chân, nhắm mắt. Trong ánh sáng chập chờn của ngọn nến, khuôn mặt ông hằn rõ từng nếp nhăn mỏi mệt – tuổi đời chưa đến sáu mươi nhưng tóc đã bạc, mắt đã đục, bởi bao năm dấn thân vào đại sự quốc gia.

Ông nghĩ đến nhà vua. Lê Lợi – người bạn chiến đấu, người thủ lĩnh, vị minh chủ ông từng đem hết tâm lực phò tá – nay đã là bậc quân vương ngự trên ngai vàng. Ông biết ơn vua, biết rõ ân sâu nghĩa nặng. Nhưng chính vì thế, đêm nay ông càng thấy nặng lòng. Vua đã hai lần giữ ông lại. Lần thứ ba – đêm nay – là lần cuối cùng. Một đặc ân hiếm có. Một sự trân trọng mà không phải trung thần nào cũng từng được trao. Vậy mà ông, Nguyễn Trãi – người từng lấy câu “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” làm gốc, người từng bao lần nhắc đến đạo quân thần, lòng trung nghĩa – lại muốn rời bỏ triều đình? Liệu rằng khi ông dứt áo ra đi, triều chính sẽ thế nào? Đức vua đang đứng giữa biết bao lớp lớp sóng ngầm mang bộ mặt tôi trung, liệu có còn yên ổn khi những trung thần như ông lại cởi bỏ mũ áo, từ quan?
Ông tự dằn vặt mình: có bất trung chăng? Có phụ nghĩa vua tôi?
Nhưng rồi một ý nghĩ khác lại trỗi dậy mạnh hơn: sự trung nghĩa lớn nhất, chẳng phải là giữ thanh danh, tiết tháo chăng? Thà rũ bỏ tất cả ra về trong trong sạch, hơn là ở lại để làm cái bóng mờ nhạt, chịu đựng sự đố kỵ, ganh ghét, bị cuốn vào vòng xoáy quyền lực mà đánh mất chính mình? Ở lại ư? Thân vẫn mũ áo cân đai xênh xang, vẫn bên vua luận bàn việc nước. Vẫn hưởng mọi bổng lộc, vàng son. Nhưng, có đúng là ta cần ở lại? Có đúng là ta nên ở lại? Có đúng là nhà vua vẫn cần ta?
Triều đình bề ngoài yên ổn. Nhưng ông đã nghe những lời xầm xì sau lưng. Những kẻ từng cúi đầu khâm phục khi khi ông được vua giao  thảo “Bình Ngô đại cáo”, nay đã dần ngẩng đầu dòm ngó quyền vị. Ông biết rõ: cây cao thì đón gió lộng, mà ánh mắt ông thì không thể nào lờ đi được sự đục ngầu trong dòng chảy của cung đình. Đã có những lời sàm tấu cất lên với đức vua, khi ông thẳng thắn can ngăn những việc không nên làm. Đã có cái nhíu mày khó chịu của đức vua, khi ông chỉ biết nói lời trung, không chịu uốn ba tấc lưỡi xu nịnh như đám quần thần khác. Đã có những việc ông tâu, mà nhà vua bỏ lửng… Đã có lần, sau khi ông hết lời can gián vua về việc không nên phế truất trung thần ngay thẳng để trọng dụng kẻ xu nịnh, lắt léo, nhà vua nhìn ông bảo: Lê Trãi, trẫm gọi khanh bằng cái tên này để nhắc khanh nhớ rằng việc trẫm ban quốc tính cho khanh là trẫm ghi nhớ công lao to lớn của khanh đã từng cùng trẫm nếm mật nằm gai từ thuở đầu chống giặc. Nhưng triều đình khác với núi rừng Lam Sơn. Bề tôi, ngoài khanh ra còn nhiều quần thần nữa. Khanh chớ nghĩ đã yêu vì thì trẫm không câu nệ…
Nguyễn Trãi trở vào trong. Gian phòng nhỏ, vách gỗ sẫm màu, chỉ có ngọn đèn dầu le lói. Ông lặng lẽ thắp ba nén hương, rồi quỳ xuống trước án thờ nhỏ kê trong góc. Trên  bàn thờ, bức linh vị của Nguyễn Phi Khanh – thân sinh của ông – đặt giữa hai bát hương, cạnh là chén rượu nhỏ ông vẫn thay đều mỗi sớm. Khói hương chậm rãi bay lên, hoà cùng sương khuya thành một lớp mờ mỏng, như bóng người cha năm xưa đang hiện về. Trong ánh sáng mờ nhạt, ký ức cũ lại hiện lên như chớp sáng giữa đêm. Cũng là một đêm trăng sáng, khi giặc Minh thắng thế, bắt hết triều thần nhà Trần, đày đi phương Bắc. Nguyễn Trãi khi ấy còn trẻ, áo mỏng, chân trần, chạy theo đoàn áp giải đến tận ải Nam Quan. Cha ông, bị nhốt trong cũi sắt, tóc đã bạc trắng mà lưng vẫn thẳng, ánh mắt không hề sợ hãi, nhụt chí hay khuất phục. Đêm ấy, ông đã mua chuộc một tên lính gác, len lén vào cạnh cũi. Hai cha con ngồi cạnh nhau, không khóc, chỉ nắm tay nhau trong ánh trăng se sắt.
– Con muốn theo cha. Dù làm nô lệ phương Bắc, cũng xin được hầu hạ sớm hôm – ông nói, giọng nghẹn lại.
Nguyễn Phi Khanh lặng đi, rồi lắc đầu:
– Con là kẻ đọc sách thánh hiền, há chịu để hiếu đễ chỉ là dâng trà giặt áo? Chí làm trai, phải tỏ bằng đại sự. Tận hiếu nhất là hiếu với giang san. Con ở lại, tìm minh chủ mà phò, dựng cờ rửa nhục. Vận nước Nam này… chưa tận đâu! Ta dẫu có gửi nắm xương tàn nơi đất khách, cũng ngậm cười chín suối…
Ông nhớ rất rõ ánh mắt cha mình khi ấy như lửa soi giữa tuyết, kiên cường mà thấu suốt. Câu nói đó như tiếng sét giữa trời đêm, đánh thức ông khỏi nỗi đau riêng để bước vào nghiệp lớn.
Tàn đêm trăng hôm đó, ông lạy tạ cha, gạt nước mắt quay về. Và từ đó, ông cất bước về phía Lam Sơn, nơi con đường mười năm dựng nghiệp bắt đầu.
Giờ đây, cũng dưới ánh trăng, cũng bên hương khói, ông lại đối diện với một quyết định không kém phần nghiệt ngã. Nhưng ông đã khác xưa. Không còn là người trai trẻ bồng bột, mà là một kẻ từng đi đến tận đỉnh cao quyền lực, giữ ghế đại thần, kề cận nhà vua, cũng là người đã nếm trải đủ những cay đắng của thế gian.
Nguyễn Trãi cúi đầu, thầm khấn:
– Cha ơi, con đã sống theo lời cha dạy. Con vẫn nhớ tận hiếu là tận trung. Nay con xin lui về, không phải vì mỏi gối chùn chân, mà là để giữ lấy phần trong sạch cuối cùng. Mong cha nơi suối vàng hiểu cho.
Hương trên bàn thờ cháy nghi ngút. Ngoài hiên, trăng bắt đầu nhạt.
Trời gần sáng!
Ông đứng dậy, mở cửa bước ra hiên. Trăng đã xế về tây, ánh sáng không còn vàng rực mà chuyển sang bạc nhạt. Cây cối trong sân cũng im lìm hơn, như đang lắng nghe bước chân ông – bước chân của một người sắp rẽ sang lối khác.
Ông ngước nhìn trăng, khẽ lẩm nhẩm:
– Trăng từng soi ta viết chiếu bình Ngô, giúp vua lập vương triều, nay lại chứng kiến ta rời bỏ vương triều ấy…

Rồi ông quay lại, ngồi vào án thư. Cuối cùng, ông cũng chấm bút. Không phải để viết biểu tạ từ, mà là để ghi một vài câu thơ:

“Trăng lặng không lời, mà sáng tự tâm ta.
Thế sự vần xoay, chỉ đạo trời không đổi.”

Ông gấp giấy lại, đặt vào túi. Mắt nhìn sang ngọn nến đã sắp tắt. Canh tư rồi. Bình minh sắp tới.

Và với bình minh ấy, ông biết mình sẽ ra đi.

Ông còn nhớ một đêm trăng khác, đêm Lê Lợi lên ngôi.

Sau cả một ngày dài dự lễ đăng quang, khi trống chiêng đã dứt, người người rút về, cung điện trở nên tĩnh lặng, Nguyễn Trãi trở về thư xá. Ông một mình thắp hương cho cha. Ngoài sân, trăng thượng tuần run rẩy sáng, ánh sáng chập chờn như xúc cảm trong lòng người.

Trước bát hương, ông khấn thầm:
– Cha ơi, nghiệp lớn đã thành. Con không theo cha về Bắc quốc, nhưng đã giữ được lời cha dặn. Con đã báo hiếu cho giang san. Con xin hứa sẽ dốc lòng tận lực phò vua, dựng xây xã tắc ngày một rạng rỡ, dân chúng ngày một yên vui.
Ông cúi đầu thật lâu, nước mắt thấm vào chiếc chiếu cạp điều. Ông xót xa cho nắm xương tàn của cha đang lạnh lẽo nơi đất khách, ngày giỗ còn không rõ, hương khói không người chăm lo. Từ buổi gạt nước mắt lạy tạ cha ở ải Nam Quan năm xưa, ông đã tự chọn ngày ấy làm ngày giỗ cha – một ngày mùa thu có ánh trăng nhạt và mùi sương se sắt, như vết khắc vào tâm khảm ông suốt cả một đời.
Không phải đến hôm nay chuyện rời đi mới làm ông trăn trở. Đã có lúc, trong những mỏi mệt chốn cung đình nhiều ganh ghét, tranh đua, ông xin nhà vua cho về Côn Sơn vài ngày, lấy cớ làm giỗ ông ngoại Trần Nguyên Đán. Vua chuẩn tấu. Ngày hôm đó, trời thu xanh thẳm, ông một mình lặng lẽ trở lại chốn xưa. Không cờ giong trống mở, không người đưa đón. Chỉ một mình lặng lẽ trong tấm áo vải thường. Không cân đai mũ áo. Côn Sơn đón ông vẫn như thuở nào – rừng trúc rì rào, nước suối chảy róc rách bên chùa cổ, chim rừng ríu rít trên mái hiên đá phủ rêu. Nắng và gió Côn Sơn hào phóng, bao dung. Mái chùa cổ cong cong trầm mặc vẫn như mấy chục năm về trước, mùi trầm đưa thoang thoảng, tiếng mõ thong thả ngân nga lẫn trong tiếng kinh cầu khoan thai. Những cây đại già nơi sân chùa vẫn nở trắng hoa, gửi hương vào gió…
Sau lễ giỗ, ông trèo lên đỉnh Bàn Cờ Tiên, nơi ngày xưa ông ngoại vẫn cùng các bậc cao niên tâm giao ngắm mây chơi cờ, bàn chuyện thế sự. Đứng từ đỉnh cao, nhìn mây trắng vần vũ quấn quanh các ngọn thông già, Nguyễn Trãi cảm thấy lòng như như vách núi. Vừa chơi vơi lại vừa rợn ngợp. Mọi danh vọng, quyền thế nơi kinh thành bỗng hóa xa xăm và nhỏ bé như một đốm lửa lập lòe dưới thung lũng. Ngày nhỏ, mỗi lần theo ông ngoại trèo lên đây, cậu bé Trãi đều thấy trong lòng hân hoan trước cảnh non sông cẩm tú trải dài trước mắt. Những dãy núi điệp trùng xanh mướt nối nhau. Xa xa, dòng Lục Đầu uốn khúc, sáng lấp lánh trong nắng sớm. Ông ngoại thường trỏ về phía xa, bảo nơi đó là kinh thành Thăng Long… Cậu bé Trãi ngây thơ đã từng ao ước có một ngày mình đủ lớn để được tự đi đến tận kinh thành… Bây giờ, chính ông lại muốn bỏ lại kinh thành phía sau để quay về.
Ông ngồi xuống phiến đá phẳng, lặng lẽ, tựa lưng vào gốc thông già rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Trong giấc mơ ấy – rất thật, Nguyễn Trãi thấy mình lại là cậu bé năm xưa, chân đất tóc xõa, theo ông ngoại lên núi hái thuốc. Ông ngoại vẫn thế, áo nâu sồng, lưng thẳng, ánh mắt sâu và trong như lòng suối Côn Sơn. Nhưng lần này, người không cười. Chỉ đặt tay lên vai ông và nói, giọng buồn lặng:
– Núi rừng Côn Sơn là nhà. Lúc mệt mỏi, nguy nan, con hãy về mà lánh nạn. Kẻ thù lui, nhưng cạm bẫy giăng tứ phía. Người trung nghĩa muốn giữ lòng trong, không dễ đâu con ạ…
Nguyễn Trãi choàng tỉnh. Trán đẫm mồ hôi. Bóng nắng xiên ngang qua đỉnh cây rọi xuống chỗ ông nằm, như có ai đó vừa lặng lẽ rút đi.
Lần đó, khi quay lại Thăng Long, ông thấy lòng mình đã khác. Ông bắt đầu soạn thảo sớ xin cáo quan, nhưng còn lần lữa. Vua còn chút lòng yêu tin, còn vời đến bàn việc nước, ông chưa thể dứt. Nhất là ông đã nhìn thấy bao hiểm họa quanh vua, ẩn trong những gương mặt đại thần lưỡi nói lời hay mà tâm đang giấu điều xảo trá. Đức vua không nhận ra, nhưng ông nhận ra.  Nhưng giấc mộng Côn Sơn vẫn đêm ngày trở lại, day dứt… Ông biết mình không nên nấn ná thêm…

Mây mù vần vũ phủ bầu trời, che lấp ánh trăng. Nguyễn Trãi châm thêm đèn, viết lại lần thứ ba tờ biểu cáo quan, mỗi nét bút dằn xuống trang giấy dó hằn lên tâm trạng nặng nề.
Tờ trước ông đã xé. Tờ thứ hai ông viết nửa chừng thì chấm dứt, vì lòng còn ngổn ngang. Nhưng giờ đây, sau ánh trăng vụt tắt, tay ông không còn run nữa. Chữ viết ra, đều nặng như đá đè.
Khi ông vừa đặt bút lông xuống, mực chưa kịp khô, tiếng trống chầu bất thường vang dội từ điện chính – dồn dập, gấp gáp như hiệu lệnh xung trận. Ông giật mình. Chỉ khi có chuyện hệ trọng, vua mới cho gióng trống chầu giữa lúc chưa rõ canh năm. Nguyễn Trãi lật đật sửa khăn áo, khoác áo dài, đi nhanh ra chính điện. Không khí nặng nề. Triều thần lặng lẽ đứng hai bên, nhiều gương mặt nhợt nhạt trong ánh đèn lồng. Trên ngai, vua Lê Thái Tổ ngồi sẵn, gương mặt trầm mặc nhưng ánh mắt lạnh như sương.
Đứng giữa điện là Ngô Tĩnh – một đại thần trung nghĩa, từng là tướng trụ cột thời đánh Minh, nổi tiếng liêm khiết, chính trực, lời nói thẳng như tên bắn. Ông thường cùng Nguyễn Trãi tâu bày việc nước, không ngần ngại góp lời can gián. Cũng vì thế, Ngô Tĩnh bị bọn xu nịnh âm thầm oán ghét.
Hôm nay, Ngô Tĩnh bị trói tay bịt miệng… Nguyễn Trãi bàng hoàng, chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì  Phạm Dật bước ra, tay cầm bản tấu, tâu lớn:
– Muôn tâu bệ hạ, thần vâng mệnh điều tra, đã phát hiện Ngô Tĩnh liên kết với binh lính cũ, âm mưu tạo phản. Việc đã rõ ràng, xin bệ hạ không chần chừ  cho chém đầu để trừ họa về sau.
Vua cau mày, không nói. Cả điện im phăng phắc. Nguyễn Trãi tiến lên một bước, giọng đĩnh đạc:
– Bệ hạ, Ngô Tĩnh là bậc trung thần, vào sinh ra tử vì xã tắc. Thần tin, ông ấy không có lòng phản nghịch. Xin bệ hạ minh xét, kẻ ganh ghét mượn tay pháp độ để mưu hại người hiền, thì vận nước không thể yên. Việc này, thần cúi xin bệ hạ bình tĩnh tra xét lại. Nếu Ngô Tĩnh thực có lòng phản loạn, thì việc xử tội cũng chưa muộn! Nếu vu oan cho người vô tội, người có công, thì sai không thể sửa! Thần xin bệ hạ giao cho người tâm phúc tra xét lại…
Vua nhìn thẳng vào ông. Ánh mắt khi xưa từng ấm áp như lửa rừng Lam Sơn, nay đã lạnh như đá.
– Sao nhà ngươi là trung thần lại đi bênh kẻ tạo phản? Ta còn nghĩ đến ân nghĩa… nhưng đừng lạm quyền mà lấn áp nhà vua.
Tiếng nói không to, nhưng sắc như kiếm vừa mài.

Phạm Dật đế thêm: Tâu bệ hạ, biết đâu sau Ngô Tĩnh, vẫn còn kẻ đồng mưu…

Ánh mắt Ngô Tĩnh chiếu thẳng vào Phạm Dật, lóe lên tia nhìn vừa căm hận lại vừa bất lực. Rồi Ngô Tĩnh nhìn sang Nguyễn Trãi, ánh  mắt đầy xót xa, như một lời vĩnh biệt…
Nguyễn Trãi lặng đi. Ông quay sang. Bắt gặp ánh mắt lạnh như gươm đã rút ra khỏi vỏ của Phạm Dật, và vẻ mặt không giấu nổi nỗi hả hê của vài tên nịnh thần đứng cuối hàng. Một cảm giác buốt lạnh tràn qua sống lưng ông – không phải vì gió sáng, mà vì ông biết: nơi này, ông không còn thuộc về nữa.
Khi ông trở về thư phòng, tờ đơn xin cáo quan nằm trên án, nét mực vừa kịp bầm lại như vết máu khô.
Trời đã hửng sáng. Ánh bình minh mờ nhạt rọi lên mái ngói rêu phong của điện Kính Thiên. Thành Thăng Long vẫn sừng sững uy nghi giữa sương sớm, nhưng trong lòng Nguyễn Trãi, đó chỉ còn là một khuôn mặt lạnh lẽo. Chỉ còn là hình ảnh xa lạ. Chỉ còn là dư âm của giấc mộng đã tan. Ông sửa lại y phục… Là tấm áo vải thường.  Là đôi giày vải cũ. Tóc bạc búi gọn, áo dài chỉnh tề. Tờ sớ xin cáo quan được đặt vào tay áo. Một cuộn giấy mỏng manh mà nặng như đá tảng nghìn cân. Khi vào đến nội điện, Nguyễn Trãi quỳ xuống, dập đầu ba lạy. Nhà vua đã chờ sẵn, nhưng ánh mắt không còn giữ được vẻ thân tình thuở trước.
Ông kính cẩn dâng sớ, lời lẽ không cầu xin, không oán trách, chỉ trầm tĩnh như gió núi Côn Sơn:
– Thần tuổi đã cao, tâm đã mỏi. Nay xin được lui về, sống đời tịch mịch, giữ đạo kẻ sĩ. Tạ ơn bệ hạ đã cất nhắc suốt bấy lâu. Thần không còn gì luyến tiếc. Thần chỉ mong bệ hạ bảo trọng! Thần chỉ mong người…
Vua Lê lặng thinh, rồi phất tay. Một động tác nhẹ, nhưng đủ khiến Nguyễn Trãi hiểu: từ nay, ông đã ra khỏi cõi chính sự.
Ông đứng dậy, cúi đầu lần cuối, không ngoái lại.
Trên đường từ nội điện ra cổng thành, Nguyễn Trãi bước chậm, nhưng không chùn chân. Ông không nuối tiếc chiếc mũ nhập nội hành khiển. Không luyến lưu ánh sáng của những cung điện vàng son. Nơi ông đã từng được coi là cột trụ quốc gia. Điều duy nhất khiến lòng ông quặn thắt, là nỗi đau của một trung thần không thể can gián quân vương. Ông từng dâng “Bình Ngô đại cáo” để dẹp giặc Minh, nhưng lại bất lực trước những nịnh thần tay không nhuốm máu mà độc hơn vạn tên đao phủ. Ông đã giúp vua thắng giặc, nhưng không thể giúp vua thắng chính mình. Ông biết những cơn sóng ngầm đang ẩn náu dưới ngai vua, dưới những ghế đại thần, nhưng lại bất lực, không thể làm gì hơn được… Bao triều đại rồi, những suy vong đều bắt đầu từ những ham hố quyền lực, bè phái tranh giành…
Cửa thành mở ra. Ngoài kia, con đường dẫn về Côn Sơn nhuộm màu nắng nhạt, lặng lẽ và dài hun hút. Nguyễn Trãi dừng lại một thoáng, nhìn lại kinh thành lần cuối. Thành Thăng Long vẫn rực rỡ, vẫn sừng sững, vẫn là trái tim của giang sơn – nhưng trái tim ông giờ đây chỉ còn đập theo tiếng suối rừng Côn Sơn.
Ông ngẩng đầu, điềm tĩnh cất bước.
Một chiếc lá vàng rơi xuống, xoay nhẹ trên gió sớm rồi đậu xuống đường. Như một dấu chấm lặng lẽ kết thúc một quãng huy hoàng trong lịch sử. Như một lời tiễn biệt không nói thành lời.
Và một tiếng thơ vang thầm giữa bước chân cô độc:
“Mười năm xa cách chốn non nhà
Tùng cúc quay về nửa xác xơ
Đã hẹn rừng khe đâu phụ ước
Cúi đầu đất bụi chỉ thương ta…”

N.T.V.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tin buồn: Nhà thơ, Thượng tá Vũ Đình Nguyệt từ trần
Nhà thơ, Thượng tá Vũ Đình Nguyệt – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM – sau một thời gian bị trọng bệnh, đã từ trần lúc 13g49, ngày 25/6/2025 (nhằm ngày 01/6 năm Ất Tỵ), hưởng thọ 68 tuổi.
Xem thêm
Hoạt động 6 tháng đầu năm 2025 của Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Sáu tháng đầu năm 2025, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh cải cách, đổi mới, tinh gọn bộ máy; vượt qua những khó khăn, xáo trộn ban đầu, như nhiều tháng văn phòng chưa có lương, ngân sách chậm phê duyệt dẫn đến nhiều hoạt động bị đình trệ.
Xem thêm
Ra mắt tác phẩm Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau
Sáng ngày 22/06/2025, tại nhà hàng Hòn Đất đường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, TPHCM, nhà thơ Diễm Thuyên đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ “Ru say mượn tình, ru tình mượn nhau”.
Xem thêm
Đôi câu đối về liệt sĩ được xác lập kỷ lục Việt Nam
Đôi câu đối “Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc - Hồn bay lên hoá linh khí Quốc gia của Đại tá, nhà báo Trần Thế Tuyển được xác lập kỷ lục Việt Nam.
Xem thêm
50 Album Hồn Việt – Món quà đầy ý nghĩa từ nhà thơ Lâm Xuân Thi gửi tặng Hội Nhà văn TP.HCM
ội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh xin trân trọng cảm ơn nhà thơ Lâm Xuân Thi – người bạn thủy chung, nghĩa tình và là nhà tài trợ nhiều năm qua của Hội – vì món quà quý báu vừa được gửi tặng: 50 album ca khúc Hồn Việt
Xem thêm
Thư mời Giao lưu văn học Việt - Trung lần thứ nhất
Vào lúc 14 giờ ngày 27/6/2025, tại Hội trường B, Trụ sở Liên hiếp các Hội văn học nghệ thuật TP. HCM
Xem thêm
Khi phụ nữ làm thơ và làm báo bằng một trái tim
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, tháng 6/2025
Xem thêm
Đoàn Hội Nhà văn Thượng Hải tới thăm Hội Nhà văn TP. Hồ Chí MInh
Sáng ngày 6/6, dịch giả Nguyễn Lệ Chi (Phó chủ tịch Hội đồng Văn học dịch Hội nhà văn TP.HCM) đã dẫn đoàn Hội nhà văn Thượng Hải đến thăm Hội nhà văn TP.HCM, đồng thời kiêm vai trò phiên dịch trong buổi giao lưu.
Xem thêm
Lời chia buồn của Hội Nhà văn TPHCM
Cụ Bà PHẠM THỊ MÃNH, mẫu thân nhà văn Bích Ngân, vừa từ trần lúc 7 giờ 10 phút ngày 30 tháng 5 năm 2025 (nhằm mùng 4 tháng 5 năm Ất Tỵ), hưởng thọ 88 tuổi.
Xem thêm
Thông báo lùi thời gian tổ chức “Những ngày Văn học, Nghệ thuật TP.HCM
Theo Thông báo số 1630-TB/VPTU của Văn phòng Thành ủy TP.HCM, chương trình “Những ngày Văn học, Nghệ thuật TP.HCM” với chủ đề: “Thành phố Hồ Chí Minh – Nơi những dòng sông hội tụ” sẽ được chuyển sang tổ chức vào đầu tháng 7.
Xem thêm
Bóng ký ức trên quê nhà
Chùm thơ rút từ tập Bóng quê
Xem thêm
Thông báo về Chuỗi sự kiện “Những ngày Văn học, Nghệ thuật TP.HCM”
Thông báo mời các hội viên và bạn bè yêu văn học nghệ thuật
Xem thêm
Thông tin về Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Trịnh Hoài Đức lần thứ VI (2020-2025)
Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai thông báo tổ chức xét tặng Giải thưởng Trịnh Hoài Đức lần thứ VI
Xem thêm
Võ Thị Như Mai được vinh danh tại Tây Úc vì những đóng góp cho văn hóa và ngôn ngữ Việt
Ngày 7/5/2025, tại trụ sở Tổng Lãnh sự quán Việt Nam ở Tây Úc (Perth), nhà thơ – dịch giả Võ Thị Như Mai đã vinh dự nhận bằng khen vì những đóng góp nổi bật trong việc thúc đẩy sự hòa nhập, đối thoại và đa dạng văn hóa thông qua ngôn ngữ và văn chương.
Xem thêm
Lãnh đạo nhiều nước chúc mừng đại lễ 30/4 của Việt Nam
Lãnh đạo Lào, Campuchia và nhiều nước đã gửi thư, điện mừng Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xem thêm
Toàn cảnh Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Lễ diễu binh, diễu hành cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chính thức diễn ra vào 6h30 ngày 30/4/2025.
Xem thêm
“Bài ca Thống nhất” và tinh thần nhân văn
Bài phát biểu của nhà văn Trịnh Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP. Hồ Chí Minh tại chương trình nghệ thuật Bài ca Thống nhất
Xem thêm
Góp tiếng nói cho Văn học Thiếu nhi trong thời đại Trí tuệ nhân tạo
Phóng sự buổi Tọa đàm chuyên đề đã diễn ra với chủ đề “Văn học thiếu nhi trong thời đại Trí tuệ Nhân tạo”.
Xem thêm