TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Những ‘mắt thấy tai nghe’ về phong tục tết xưa của người Việt

Những ‘mắt thấy tai nghe’ về phong tục tết xưa của người Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-04 10:59:44
mail facebook google pos stwis
1713 lượt xem

Trong ký sự hành trình Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ), bác sĩ Hocquard tường thuật những điều “mắt thấy tai nghe” về tết xưa một cách chân thực và lôi cuốn về lịch sử, văn minh, văn hóa, phong tục của người Việt.

Hocquard miêu tả nhiều nội dung thú vị về không khí tết xưa ở thành Huế năm 1886 và cho biết mình ở thành Huế vào “mùa lễ hội”, vì gần tới tết Nguyên đán.

Theo quan sát của Hocquard, trong không khí kéo dài một tháng trời ấy người dân bản địa, người giàu cũng như nghèo, dừng tất cả mọi công việc hằng ngày để dành thời gian nghỉ ngơi, ăn uống và hoạt động giải trí.


Con cháu mừng tuổi ông bà ngày đầu năm mới.

Ông viết: “không có buôn bán, không việc đồng áng, không lao dịch khổ sai; người lớn và trẻ nhỏ sẽ mặc quần áo đẹp; những người khốn khổ sẽ đem bán nốt đồ đạc và vay mượn cho đủ tiền ăn tết”.

Trở lại câu chuyện của Camille Paris, người chịu trách nhiệm xây dựng đường điện báo Trung kỳ từ Huế đến Bình Thuận ở kỳ trước, cũng đã có những trải lòng về không khí chuẩn bị đón tết Nguyên đán của người Việt khi ông dừng chân ở Vân Hội (thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) đầu năm 1886.

Trong tác phẩm Voyage d’exploration de Hué en Cochinchine par la Route mandarine (Du ký Trung kỳ theo đường cái quan, xuất bản năm 1889; Nguyễn Thúy Yên dịch sang Việt ngữ, Thư Books và NXB Hồng Đức ấn hành năm 2021), Camille Paris được dịp quan sát những hoạt động chuẩn bị đón tết Nguyên đán của người bản xứ, Paris cảm thấy rất vui và thú vị. Trong mắt ông, vào những ngày đầu năm mới người Việt ai cũng ăn mặc đẹp, “lũ trẻ con mặc quần áo đẹp, đội nón rộng vành che nắng. Từ trẻ con cho tới người già đều ăn mặc đẹp khác với ngày thường”.

Tết mang đến một bầu không khí vui tươi, tích cực nhưng cũng mang lại điều phiền toái cho công việc của Camille Paris và người Âu lúc bấy giờ, đó là mọi người làm công cho ông đều bỏ về ăn tết cổ truyền hết. “Thằng bồi của tôi cũng không bỏ phong tục này cho dù chúng tôi đang trên đường. Nó còn xin ứng tiền trước và bỏ mặc tôi từ Bình Định, cùng lúc ăn cắp của tôi một chai [rượu mùi] Chartreuse và một đôi giày!”, Paris hài hước viết.


Người Huế đi chợ tết năm 1923.

Tác giả người Anh là bà Gabrielle M. Vassal cũng kể câu chuyện tương tự ở Nha Trang trong tác phẩm Mes Trois Ans d’Annam (Ba năm ở An Nam, xuất bản năm 1912).

Trong một quan sát khác, khi dừng chân và ngủ lại ở Sông Cầu (tỉnh Phú Yên) một đêm trước tết (đêm giao thừa), Paris thấy “một vài người đã bắt đầu đón tết rồi”.

Ở những nơi công cộng thì “gánh hát rong treo nhạc cụ vào một cái dây và gõ trống chiêng, thanh la, và khi muốn thật ồn ĩ, họ thi nhau gào lên những âm mũi và họng. Một chú nhóc đi xin tiền khán giả xung quanh. Rồi pháo nổ tứ phía, có cả pháo sáng nữa, ai cũng cần phải gây tiếng ồn mới được.”

Hoạt động của những đoàn kịch tỉnh lẻ trong dịp mồng 1 tết Nguyên đán cũng được bác sĩ Hocquard mô tả trong tác phẩm Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ, xuất bản năm 1892), theo Hocquard những đoàn kịch này cũng có mặt trong các lễ hội dân gian được chính quyền tổ chức hoặc ngày mừng thọ vua chúa hay nhân dịp có sự kiện quốc gia khác.


Chợ tết Huế xưa.

Bác sĩ J.C. Baurac thì viết trong tác phẩm La Cochinchine et ses habitants Provinces de l’Ouest (Nam kỳ và cư dân các tỉnh miền Tây, xuất bản năm 1894) rằng, “lễ hội quan trọng nhất của người An Nam [tức Việt Nam] là tết hay năm mới kéo dài ba ngày, khi đó, tất cả công việc và mọi hoạt động buôn bán đều bị ngưng lại; người ta không họp chợ. Ở Sài Gòn tết xưa ở các trạm nội địa, người Âu châu phải dự phòng và trữ đồ trước Tết vì trong ba ngày nghỉ lễ này, khắp nơi đều đóng cửa”. Baurac cho biết thêm, mồng 1 tết là ngày dành cho việc cúng bái tổ tiên; mồng 2 để thăm bạn bè, người quen; mồng 3 là cho các trò giải trí các loại. “Người An Nam, lớn và nhỏ, trẻ như già, giàu hay nghèo đều chủ yếu là tham gia các trò chơi vào ngày cuối cùng này”.

 Nguyễn Quang Diệu/Thanh Niên

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm