TIN TỨC

Một mùa xuân nho nhỏ - Bút ký của Tạ Vĩnh Hải

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-12-30 17:22:04
mail facebook google pos stwis
972 lượt xem

Cứ mỗi độ xuân về tết đến, trong cái se sắt của thủa mùa đông, nhìn những mầm non tý tách đâm trồi nảy lộc, hòa trong thanh âm lảnh lót trong veo vẻo như pha lê của cô sẻ quạt, trước con mắt mơ màng, ngơ ngác của thược dược và sự thẹn thùng, e lệ của hồng nhung, khi mấy nàng gió tung tảy kéo chị đào đi chảy hội, nhất là khi giai điệu bài hát “Một mùa xuân nho nhỏ” của nhạc sỹ Trần Hoàn vang lên, là trong tôi bỗng trào dâng những cảm xúc nhói nghẹn nơi con tim, khi nhớ tới những đồng đội xưa, những người đã vào sinh ra tử, cống hiến tuổi thanh xuân và cả những giọt máu hồng, cho cánh đào thêm thắm.

Ảnh minh họa

Xuân 1966 cũng như bao xuân khác, cánh đào cũng lung linh trong nắng để báo cho vạn vật “Đất trời đã sang xuân !” Lớp chiến sỹ mới chúng tôi ngày ấy, những chàng trai đang độ tuổi đôi mươi, phơi phới niềm tin vào một tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Được lệnh vào Nam gấp, để chi viện cho chiến trường. Không phút so đo toan tính, tất cả đều háo hức nhanh chóng làm tốt mọi công tác chuẩn bị hành quân. Dẫu thời gian rất gấp, nhưng chỉ huy đơn vị vẫn cho phép những anh em có gia đình ở gần tranh thủ ghé thăm nhà. Tiểu đội tôi có đồng chí Tuấn quê Nam Hà, vì mới cưới vợ cũng được về tranh thủ. Hết thời gian qui định mọi người đều có mặt đông đủ, duy có Tuấn thì vẫn bặt âm vô tín, nhìn đồng hồ mà lòng tôi như lửa đốt, giờ hành quân đã đến nơi, không còn cách nào khác, tôi đành báo cáo với chỉ huy đơn vị. Nghe tôi trình bày xong cả đại đội trưởng và chính trị viên đều ưu tư, lo lắng, nhịp thời gian nặng nề trôi trong tĩnh lặng, một tiếng hai tiếng…đồng chí đại trưởng đi đi, lại lại điếu thuốc rít đỏ trên môi. Anh quay lại nhìn tôi, nói nhỏ như với chính mình “Có khi nào…?”. Tôi như giẫm phải lửa, toan thưa “Không, không bao giờ, bởi em tin vào thằng đồng hương của mình !”. Nhưng sự thật khiến tôi đành câm lặng. Kim đồng hồ vẫn nặng nề nhích từng khắc. Đã đến giờ qui định, đại trưởng phát lệnh triệu tập đơn vị, chính trị viên lại nhìn đồng hồ và dõi mắt về nơi xa xăm. Đến lúc này thì tất cả đều đã biết Tuấn chưa có mặt. Sau một hồi còi mọi người nai nịt gọn gàng, đại trưởng hạ mệnh lệnh hành quân xong. Nhìn đơn vị một lượt, anh nói trong day dứt: Chắc các đồng chí đã biết trường hợp đồng chí Tuấn. Không khí đơn vị bỗng trùng xuống, không ai bảo ai, nhưng tôi biết mọi người đều buồn lắm. Anh lặng đi hồi lâu rồi nặng nề: Vì nhiệm vụ, chúng ta vẫn phải xuất quân đúng thời gian qui định, còn việc cậu Tuấn đào ngũ, hay không - đã có kỷ luật của quân đội. Giọng anh vẫn nặng chĩu: Tôi mong tất cả hãy phát huy truyền thống đơn vị anh hùng, noi gương các thế hệ cha anh đi trước, quyết không nản lòng trước hy sinh, gian khổ, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Các đồng chí nhất trí không?! Anh vừa rứt lời, thì tiếng đồng thanh “Nhất trí, nhất trí!” vang lên, làm sáng cả một góc trời.  

Mắt đại trưởng ánh lên kiên nghị, anh quay lại giới thiệu chính trị viên lên động viên đơn vị. Nhìn những gương mặt rắn rỏi, lấp lánh niềm tin, giọng anh hùng hồn, hào sảng khiến cho không khí thêm trang nghiêm và thiêng liêng đến lạ thường “Vì miền Nam ruột thịt vì độc lập, tự do của Tổ quốc, chúng ta quyết hy sinh tất cả!” Những cánh tay nhất loạt vung cao “Quyết tâm, quyết tâm, quyết tâm !” Bao rồn nén như được bật ra từ nơi sâu thẳm, trong huyết quản đang hừng hực cháy, của những chàng Thạch Sanh thế kỷ XX, với lời thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, vọng vào từng thớ đất.

Không khí đơn vị hết sức hưng phấn, bỗng có tiếng “Quyết tâm!” lẫn trong hơi thở đứt quãng. Tất cả đều hướng về phía tiếng hô. Hùng tiểu đội phó reo lên “Tuấn, Tuấn về rồi các đồng chí ơi!” Mọi người chững lại giây lát, rồi ào ra đón Tuấn. Tôi siết chặt người đồng hương nghèn ghẹn. Tao cứ tưởng…Tưởng gì, tưởng tao đảo ngũ chứ gì. Không bao giờ thằng Tuấn này hèn như thế đâu. Rồi Tuấn thuật lại chuyện lúc chuẩn bị lên đường thì cô vợ bỗng chuyển dạ, nhà có mỗi bố mẹ già nên không còn cách nào, Tuấn phải cõng vợ chạy một mạch thẳng lên trạm xá, vừa đặt vợ xuống giường đã vội vơ ba lô băng theo đơn vị, lúc qua con suối mới ngớ người, quên chưa dặn vợ sinh con đặt tên gì. Cả đơn vị được một trận cười hả hê, rồi gấp rút lên đường.

Khi qua ngã ba Vọt chúng tôi được lệnh xuống xe hành quân bộ, đường đi mỗi lúc thêm gian nan, khốc liệt. Ngoài các loại mìn lá, rắn, rếp, côn trùng, muỗi, vắt, thì lũ OV-10 lúc nào cũng vè vè trên đầu, chỉ cần một sơ xuất nhỏ là chúng thả ngay đạn khói đánh dấu, cho lũ A4, A6 và pháo bầy từ ngoài biển bắn vào tới tấp, chiếc ba lô nhẹ bẫng hôm nào, mà nay bỗng chĩu nặng rồn xuống đôi chân xưng vù, tứa máu, đâu đó đã có những tiếng thở dài, những vật dụng không cần thiết cũng dần bị bỏ lại bên đường, thậm trí có anh còn bỏ đi từng tờ giấy...Sau hơn hai tháng hành quân, thì đơn vị cũng có mặt tại địa điểm tập kết. Vừa đào xong hố bắn cá nhân thì đã đến giờ giao thừa, chúng tôi vừa ăn lương khô vừa nghe Bác chúc tết. Hướng mắt về phía phương Bắc Tuấn lầm dầm như đang cầu khẩn gì đó.   

Bỗng những tiếng rít eo éo trên đầu, rồi những tràng ầm ầm rền vang như sấm, rung chuyển cả trời đất. Đại trưởng đến từng công sự động viên anh em yên tâm, vì đây chỉ là những đợt pháo bầy vu vơ của địch, anh nhắc nhở mọi người hết sức cảnh giác và nên ở dưới hần cho an toàn. Lát sau chính trị viên cùng đồng chí liên lạc đến chúc tết và phát cho mỗi người, hai chiếc kẹo Hải Hà, một gói thuốc Điện Biên. Vậy là đêm giao thừa của chúng tôi qua đi, trong tiếng ùng oàng của pháo đạn Mỹ. Sáng mùng một, mọi người đều dậy từ sớm ai ai cũng chúc nhau những lời tốt đẹp nhất. Vừa xong bữa sáng, đơn vị lại được lệnh hành quân vào sâu trong vùng chiến địa, đi một đoạn chúng tôi đã gặp những chiếc xe bịt kín chở anh em thương binh và tử sỹ. Không khí ở đây hết sức tang thương, cả một vùng trắng, ngổn ngang bầm dập, tuyệt nhiên không một mầm xanh, những thân cây leo lét cháy bên những hố bom loang lổ. Chúng tôi vẫn tiếp tục hành quân, đến chiều tối thì đơn vị tạm nghỉ để đêm đi tiếp, vì đây đã đến khu sát khu căn cứ của địch.

Lại thêm một đêm thức trắng băng qua lửa đạn, đến gần sáng thì đơn vị được lệnh dừng chân, mọi người lại nhanh chóng bắt tay vào đào đắp công sự, hố bắn cá nhân. Công việc vừa hoàn tất, thì cũng là lúc mặt trời chui ra từ những đám mây u ám. Chúng tôi vội vàng ăn sáng và củng cố lại hầm hố. Bỗng mặt đất tối sầm, chao đảo, một tiếng hô thất thanh “B52!” chỉ nghe được vậy là tôi không còn biết gì nữa, lúc tỉnh dậy thì…Chao ơi! một cảnh tượng tang thương kinh hoàng đập vào mắt, khắp một khoảng rộng cả cây số không một sự sống, mà chỉ có những tiếng kêu rên và phần xác thịt đầm đìa máu me của đồng đội. Như bừng tỉnh, chúng tôi vội lao đi bới tìm những người còn thoi thóp đâu đó, vừa đến bên hầm của Tuấn tôi đã thấy cẳng chân của ai đó vắt ngang một xác cây chi chít mảnh bom, may quá Tuấn vẫn sống, nhưng khi kéo được Tuấn ra khỏi hầm, thì Tuấn đã yếu lắm rồi. Nắm chặt tay tôi Tuấn thì thào gì đó mà không sao nghe được, tôi vội băng vết thương cho bạn, nhưng vết thương quá nặng máu từ phồi cứ phè phè tuôn chảy. Nhìn cảnh tượng ấy, tôi cố cắn chặt môi để không bật ra tiếng nấc. Tuấn đưa tay ra hiệu cho tôi ghé sát, giọng thoảng như tiếng gió “Hãy cố sống để trả thù cho tao nhé, đừng vội báo tin cho Loan và gia đình, khi nào về thì bảo Loan đặt tên cho con là Thắng, phải chiến thắng chính mình, chiến thắng giặc Mỹ… ” chưa hết câu Tuấn đã lạnh đi trên tay tôi. Vuốt mắt cho bạn, thầm hứa sẽ trả thù và thực hiện cho được ước nguyện của Tuấn cùng đồng đội.

Ngước mắt về phương Nam, bên những loang lổ của đạn bom cày sới, tôi vẫn thấy một màu xanh ngằn ngặt trên đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, cái màu xanh bất diệt của đất mẹ Việt Nam.

Có ai đó đã từng nói “Một sự sống ý nghĩa mất đi, là gieo mầm cho ngàn sự sống mới”. Đúng, điều đó hoàn toàn toàn đúng với cánh lính chúng tôi và cả dân tộc sống trên dải đất hình chữ “S” này nữa. Cái chết gieo mầm, một mầm xanh nho nhỏ.

Vâng sự ra đi của Tuấn và những đồng tôi, họ hy sinh mà không hề chết bởi họ đang gieo những mầm xanh cho tương lai, cho đất mẹ Việt Nam ngày thêm tươi đẹp, đó chính là cái chết gieo mầm của một mùa xuân nho nhỏ.

Tạ Vĩnh Hải

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm