TIN TỨC

Ngã Ba Đồng Lộc trong trái tim ta

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-30 17:56:48
mail facebook google pos stwis
3984 lượt xem

 (Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong đời mỗi con người ta bắt gặp biết bao ngã ba. Có ngã ba của những con đường gặp nhau trên mặt đất, có ngã ba nơi hội tụ của sông lớn, sông con. Có ngã ba nơi gặp nhau của những dòng văn minh đông, tây, kim, cổ. Một dân tộc, một con người cũng có khi đứng trước một ngã ba vận mệnh. Nhưng chẳng có nơi nào trên mảnh đất hình chữ  S này lại có một ngã ba làm bằng xương máu của mười cô gái tuổi từ 18 đến 22. Đó là ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh).

Tượng đài di tích Ngã Ba Đồng Lộc

         Nhà thơ Huy Cận đã có bài Ngã ba Đồng Lộc (1971) viết sau sự ra đi của các cô bằng một giọng vừa trữ tình đằm thắm, vừa triết lý sâu xa: “Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống/ Hay bằng đá, bằng đất/ Bằng xi măng cốt sắt/ Bằng vôi trắng gạch xây/ Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu/ Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã/ Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu”. Nơi đây mỗi mét vuông đất phải hứng chịu ba trái bom bự. Chị Võ Thị Tần đội trưởng thanh niên xung phong của các cô, chuyên lấp hố bom. Chị La Thị Tám chuyên phát hiện bom nổ chậm, nhiều khi tự nguyện làm một cọc tiêu sống đứng cắm cờ canh bom để dẫn đường cho xe ra tiền tuyến. Đôi chân các cô còn nhanh hơn kíp nổ. Nhiều nhà thơ đã xem Ngã ba Đồng Lộc là ngã ba trái tim, là huyết mạch giao thông không thể để tắt nghẽn trên con đường xe chạy vào Nam. Nhà thơ Xuân Hoàng đã bắt gặp một sắc màu đẹp giữa tuyến lửa đầy bom đạn này:

                 Có phải rừng xanh vắt trên tuyến lửa

                 Cho ngã ba này một sắc hồng sen

Nhà thơ Trần Mạnh Hùng trong một Chiều qua Đồng Lộc đã thắp nén nhang tưởng niệm thay lời ru gửi tới các cô:

              Chói chang nắng lửa chiều hè

        Ngã ba Đồng Lộc anh về thăm em

              Hương thầm ai mới đốt lên

        Gió Lào thổi héo tóc mềm cỏ nâu.

Hương thơm vẫn tỏa ngát suốt ngày đêm trên mười ngôi mộ. Tương truyền rằng những ai qua đây, thắp nhang khẩn cầu đều được hồn thiêng của các cô nâng bước, những ai chưa chồng chưa vợ tới cầu mong đều được chim liền cánh, cây liền cành. Các cô ra đi giữa độ tuổi đang yêu với bao ước mơ xanh và lý tưởng đẹp. Nhưng hại thay! Bom Mỹ đã cắt ngang, vùi lắp. Bởi thế hồn trinh của các cô vẫn tỏa sáng ban phát và vun đắp tình yêu cho biết bao lứa đôi hò hẹn. Trong bài “Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc” nhà thơ Đồng Đức Bốn cảm thấy như mười ngôi mộ ấy được xây bằng tiếng chim ca bên trời chứ không phải bằng gạch, đá, xi măng, vôi vữa nữa. Và hình như các cô vẫn lẫn quất đâu đây như người đi vắng một lát thôi:

    Cầm cỏ thì thấy mồ hôi

    Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng.

Sự sống vẫn phập phồng, vẫn tỏa hương trên đất Mẹ. Nhà thơ Bùi Văn Bồng  lặn lội từ Thanh Hóa vô Can Lộc, Hà Tĩnh  để viếng mộ các cô và cảm nhận sự trinh trắng:

 Mười làn môi chưa một lần hò hẹn

 Mãi trẻ trung cô gái ngàn năm

 Mười mái tóc chưa trai làng nhẹ vuốt

 Mãi xanh cùng cây lá Trường Sơn. 

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến như gặp lại các em giữa chiến hào khói lửa cháy bỏng:

 Các em đi khi mười tám tuổi xuân

 Và để lại những trái tim trong trắng

 Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa

 Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong.                                                 

       Trong trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái”, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đã phác thảo dáng đứng hiên ngang của người con gái làm cọc tiêu báo bom nổ chậm, lồng lộng như  bà Nữ Oa đội đá vá trời trong thần thoại, vừa mang vẻ đẹp  thánh thiện vừa rất trần thế : 

 Em cấy vào đêm sự sống mong manh mùi con gái

 Với những hàng tiêu bằng thân thể trắng ngần

 Những vầng ngực rời nơi trú ẩn

 Kéo trăng về bên hút bom câm…

 Các em đang ngồi trên cỏ xanh hay đang gieo hạt ? Các em chơi với gió, với trăng hay đang đùa giỡn trên đồng cỏ hoa vàng ? Các em không bao giờ chết cả. Bởi các em đều nhận ra chân lý Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Em bất chấp mọi bi kịch, mọi sự  nghiệt ngã của chiến tranh, và thanh thản:

 Khoảng trời xanh nằm yên trong lòng đất

 Đêm đêm tâm hồn em tỏ sáng

Những vì sao ngời chói lung linh 

      (Khoảng trời và hó bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).

 Ai đã một lần qua ngã ba Đồng Lộc cũng nghĩ về một Cung đường con gái như nhà thơ Lê Mạnh Tuấn đã viết về các cô :

 Tuổi xuân về nghĩa trang rồi

 Cứ mong mỗi ngày trở lại

 Hoa rừng hái đặt lên môi  

Các cô đã ngã xuống để góp phần làm nên một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” (Lê Anh Xuân).

          Hai mươi bốn năm sau kể từ ngày các cô đi vào cõi vĩnh hằng, nhà thơ Mai Văn Phấn đã có bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc thành kính dâng lên. Bài thơ đạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1995. Chỉ vẻn vẹn có mười câu lục bát như ứng với mười nén nhang của tâm cảm:

Tháng ngày gương lược về đâu

Chân trời để xõa tóc màu cỏ non

Các cô nằm lại trên cồn

 Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

 Khăn thêu những dấu tay gày

 Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời

Người ơi, tôi gặp lại người

 Hơi bom vẫn thổi rụng rời cát khô

 Nhang này quặn nỗi đau xưa

 Tôi này tôi của cơn mưa về nguồn.

         Mười câu thơ chia làm năm khổ, mỗi khổ chỉ hai câu như kiểu thơ hai-ku của Nhật, nén nỗi đau lại để cho những giọt nước mắt lặng rơi đều đều như năm nốt nhạc viếng hồn tử sĩ. Các chi tiết hữu hình như gương lược, bồ kết, khăn thê, cỏ xanh… cứ tràn ngập nhựa sống tuổi trăng tròn. Nhưng rồi tất cả lại rơi vào thinh không, tĩnh lặng. Và ở đây chỉ có cỏ xanh ngắt như mái tóc thề của các cô, chỉ có mây trắng bồng bềnh như  chiếc khăn thêu mà các cô chưa kịp gửi tặng người yêu. Và đâu đây ta vẫn ngưởi thấy mùi ngai ngái của đất pha lẫn mùi khói bom  giữa cát bụi khô rang sau mỗi trận gió Lào. Nhà thơ nguyện làm một cơn mưa về nguồn mong làm dịu bớt nỗi đau cháy bỏng của chiến tranh và làm mát lòng các cô nơi chín suối. Đó cũng là nghĩa tình uống nước nhớ nguồn , mà nhà thơ đã nói hộ chúng ta.

Đã có hàng trăm bài thơ của các tác giả chuyên và không chuyên viết về Ngã ba Đồng Lộc, viết về mười cô gái hồn trong như suối tưới. Âm hưởng chung của các bài thơ là một giai điệu buồn lắng nhưng không bi lụy. Ở một số bài vẫn tạo được không khí trầm  hùng, bay bổng của một bản anh hùng ca theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của một thời oanh liệt, như các bài: “Ngã ba Đồng Lộc” của Huy Cận, “Cung đường con gái” của Lê Mạnh Tuấn, trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái” của Nguyễn Hữu Quý, “Khoảng trời và hố bom”của Lâm Thị Mỹ Dạ, “Viếng em” của Bùi Văn Bồng… Nhiều bài, nỗi đau lắng vào chiều sâu pha chất ngậm ngùi nhưng không thiếu chất lạc quan như các bài của Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn, Trần Mạnh Hùng, Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Chiến…

         Ngợi ca sự bất tử của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc cũng chính là ngợi ca lòng dũng cảm, đức hy sinh cao đẹp của phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại. Có lẽ chẳng có thơ văn nào, giai điệu nào, màu sắc nào diễn đạt được hết sự hy sinh thầm lặng, cao quý của các cô. Mỗi chúng ta hãy cùng nhà thơ Trần Mạnh Hùng hành hương về Đồng Lộc:

             Anh về Đồng Lộc, em ơi

   Nén nhang tưởng niệm thay lời hát ru…

 

                                             Lê Xuân

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm
Xứ nhãn du ký – Bài viết của Phan Anh
Theo con đường trên mặt đê phía tả ngạn sông Hồng chúng tôi xuôi về phố Hiến để đến với vùng đất nổi tiếng một thời của xứ đàng ngoài mà từng được người đời truyền tụng là tiểu Tràng An và đi liền cùng với câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Xem thêm
Bữa cơm ân tình giữa lòng thủ đô
Trong khuôn khổ chuyến đi về thủ đô tham dự Kỉ niệm 8 năm thành lập và sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của CỘNG ĐỒNG TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM, rất nhiều sự kiện đã diễn ra và đều vô cùng ý nghĩa, trong đó có sự kiện Hoàng Xuân được ăn bữa cơm thân mật cùng với Giáo sư, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học Nguyễn Anh Trí.
Xem thêm
Đêm thơ “tứ thuỷ” – Ký của Trần Thế Tuyển
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển vừa gửi qua Zalo cho Văn chương TP.HCM bài viết nóng hổi về Đêm thơ “Tứ Thuỷ” diễn ra ở Tuy Hoà tối 17/8/2025.
Xem thêm
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Xem thêm
Cầu siêu giữa đại ngàn
Bài viết dưới đây của Đại tá nhà văn Trần Thế Tuyển ghi lại những cảm xúc sâu lắng của một người lính già tại lễ cầu siêu đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi hội tụ nghĩa tình đồng đội và lòng tri ân sâu sắc.
Xem thêm
Miền ký ức giữa rừng đước Cần Giờ
Hướng tới ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết của nhà văn Đậu Thanh Sơn về vùng đất Cần Giờ – nơi từng là căn cứ địa của Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
Xem thêm
Cua và tôm - Tản văn Trần Thế Tuyển
Bây giờ theo sắp xếp địa danh mới, gọi chung là lục tỉnh Miền Tây. Trước khi sáp nhập, chúng tôi có chuyến hành hương cửu tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và ngộ ra nhiều điều – mừng có, lo có!
Xem thêm
Tản mạn “Đêm trừ tịch”
Tản văn của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Gặp gỡ Trường Sa – yêu hơn Tổ quốc mình
Một hành trình giàu cảm xúc của nhà báo nhà văn Phương Huyền
Xem thêm