TIN TỨC

Ngã Ba Đồng Lộc trong trái tim ta

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-30 17:56:48
mail facebook google pos stwis
3580 lượt xem

 (Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong đời mỗi con người ta bắt gặp biết bao ngã ba. Có ngã ba của những con đường gặp nhau trên mặt đất, có ngã ba nơi hội tụ của sông lớn, sông con. Có ngã ba nơi gặp nhau của những dòng văn minh đông, tây, kim, cổ. Một dân tộc, một con người cũng có khi đứng trước một ngã ba vận mệnh. Nhưng chẳng có nơi nào trên mảnh đất hình chữ  S này lại có một ngã ba làm bằng xương máu của mười cô gái tuổi từ 18 đến 22. Đó là ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh).

Tượng đài di tích Ngã Ba Đồng Lộc

         Nhà thơ Huy Cận đã có bài Ngã ba Đồng Lộc (1971) viết sau sự ra đi của các cô bằng một giọng vừa trữ tình đằm thắm, vừa triết lý sâu xa: “Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống/ Hay bằng đá, bằng đất/ Bằng xi măng cốt sắt/ Bằng vôi trắng gạch xây/ Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu/ Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã/ Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu”. Nơi đây mỗi mét vuông đất phải hứng chịu ba trái bom bự. Chị Võ Thị Tần đội trưởng thanh niên xung phong của các cô, chuyên lấp hố bom. Chị La Thị Tám chuyên phát hiện bom nổ chậm, nhiều khi tự nguyện làm một cọc tiêu sống đứng cắm cờ canh bom để dẫn đường cho xe ra tiền tuyến. Đôi chân các cô còn nhanh hơn kíp nổ. Nhiều nhà thơ đã xem Ngã ba Đồng Lộc là ngã ba trái tim, là huyết mạch giao thông không thể để tắt nghẽn trên con đường xe chạy vào Nam. Nhà thơ Xuân Hoàng đã bắt gặp một sắc màu đẹp giữa tuyến lửa đầy bom đạn này:

                 Có phải rừng xanh vắt trên tuyến lửa

                 Cho ngã ba này một sắc hồng sen

Nhà thơ Trần Mạnh Hùng trong một Chiều qua Đồng Lộc đã thắp nén nhang tưởng niệm thay lời ru gửi tới các cô:

              Chói chang nắng lửa chiều hè

        Ngã ba Đồng Lộc anh về thăm em

              Hương thầm ai mới đốt lên

        Gió Lào thổi héo tóc mềm cỏ nâu.

Hương thơm vẫn tỏa ngát suốt ngày đêm trên mười ngôi mộ. Tương truyền rằng những ai qua đây, thắp nhang khẩn cầu đều được hồn thiêng của các cô nâng bước, những ai chưa chồng chưa vợ tới cầu mong đều được chim liền cánh, cây liền cành. Các cô ra đi giữa độ tuổi đang yêu với bao ước mơ xanh và lý tưởng đẹp. Nhưng hại thay! Bom Mỹ đã cắt ngang, vùi lắp. Bởi thế hồn trinh của các cô vẫn tỏa sáng ban phát và vun đắp tình yêu cho biết bao lứa đôi hò hẹn. Trong bài “Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc” nhà thơ Đồng Đức Bốn cảm thấy như mười ngôi mộ ấy được xây bằng tiếng chim ca bên trời chứ không phải bằng gạch, đá, xi măng, vôi vữa nữa. Và hình như các cô vẫn lẫn quất đâu đây như người đi vắng một lát thôi:

    Cầm cỏ thì thấy mồ hôi

    Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng.

Sự sống vẫn phập phồng, vẫn tỏa hương trên đất Mẹ. Nhà thơ Bùi Văn Bồng  lặn lội từ Thanh Hóa vô Can Lộc, Hà Tĩnh  để viếng mộ các cô và cảm nhận sự trinh trắng:

 Mười làn môi chưa một lần hò hẹn

 Mãi trẻ trung cô gái ngàn năm

 Mười mái tóc chưa trai làng nhẹ vuốt

 Mãi xanh cùng cây lá Trường Sơn. 

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến như gặp lại các em giữa chiến hào khói lửa cháy bỏng:

 Các em đi khi mười tám tuổi xuân

 Và để lại những trái tim trong trắng

 Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa

 Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong.                                                 

       Trong trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái”, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đã phác thảo dáng đứng hiên ngang của người con gái làm cọc tiêu báo bom nổ chậm, lồng lộng như  bà Nữ Oa đội đá vá trời trong thần thoại, vừa mang vẻ đẹp  thánh thiện vừa rất trần thế : 

 Em cấy vào đêm sự sống mong manh mùi con gái

 Với những hàng tiêu bằng thân thể trắng ngần

 Những vầng ngực rời nơi trú ẩn

 Kéo trăng về bên hút bom câm…

 Các em đang ngồi trên cỏ xanh hay đang gieo hạt ? Các em chơi với gió, với trăng hay đang đùa giỡn trên đồng cỏ hoa vàng ? Các em không bao giờ chết cả. Bởi các em đều nhận ra chân lý Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Em bất chấp mọi bi kịch, mọi sự  nghiệt ngã của chiến tranh, và thanh thản:

 Khoảng trời xanh nằm yên trong lòng đất

 Đêm đêm tâm hồn em tỏ sáng

Những vì sao ngời chói lung linh 

      (Khoảng trời và hó bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).

 Ai đã một lần qua ngã ba Đồng Lộc cũng nghĩ về một Cung đường con gái như nhà thơ Lê Mạnh Tuấn đã viết về các cô :

 Tuổi xuân về nghĩa trang rồi

 Cứ mong mỗi ngày trở lại

 Hoa rừng hái đặt lên môi  

Các cô đã ngã xuống để góp phần làm nên một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” (Lê Anh Xuân).

          Hai mươi bốn năm sau kể từ ngày các cô đi vào cõi vĩnh hằng, nhà thơ Mai Văn Phấn đã có bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc thành kính dâng lên. Bài thơ đạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1995. Chỉ vẻn vẹn có mười câu lục bát như ứng với mười nén nhang của tâm cảm:

Tháng ngày gương lược về đâu

Chân trời để xõa tóc màu cỏ non

Các cô nằm lại trên cồn

 Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

 Khăn thêu những dấu tay gày

 Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời

Người ơi, tôi gặp lại người

 Hơi bom vẫn thổi rụng rời cát khô

 Nhang này quặn nỗi đau xưa

 Tôi này tôi của cơn mưa về nguồn.

         Mười câu thơ chia làm năm khổ, mỗi khổ chỉ hai câu như kiểu thơ hai-ku của Nhật, nén nỗi đau lại để cho những giọt nước mắt lặng rơi đều đều như năm nốt nhạc viếng hồn tử sĩ. Các chi tiết hữu hình như gương lược, bồ kết, khăn thê, cỏ xanh… cứ tràn ngập nhựa sống tuổi trăng tròn. Nhưng rồi tất cả lại rơi vào thinh không, tĩnh lặng. Và ở đây chỉ có cỏ xanh ngắt như mái tóc thề của các cô, chỉ có mây trắng bồng bềnh như  chiếc khăn thêu mà các cô chưa kịp gửi tặng người yêu. Và đâu đây ta vẫn ngưởi thấy mùi ngai ngái của đất pha lẫn mùi khói bom  giữa cát bụi khô rang sau mỗi trận gió Lào. Nhà thơ nguyện làm một cơn mưa về nguồn mong làm dịu bớt nỗi đau cháy bỏng của chiến tranh và làm mát lòng các cô nơi chín suối. Đó cũng là nghĩa tình uống nước nhớ nguồn , mà nhà thơ đã nói hộ chúng ta.

Đã có hàng trăm bài thơ của các tác giả chuyên và không chuyên viết về Ngã ba Đồng Lộc, viết về mười cô gái hồn trong như suối tưới. Âm hưởng chung của các bài thơ là một giai điệu buồn lắng nhưng không bi lụy. Ở một số bài vẫn tạo được không khí trầm  hùng, bay bổng của một bản anh hùng ca theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của một thời oanh liệt, như các bài: “Ngã ba Đồng Lộc” của Huy Cận, “Cung đường con gái” của Lê Mạnh Tuấn, trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái” của Nguyễn Hữu Quý, “Khoảng trời và hố bom”của Lâm Thị Mỹ Dạ, “Viếng em” của Bùi Văn Bồng… Nhiều bài, nỗi đau lắng vào chiều sâu pha chất ngậm ngùi nhưng không thiếu chất lạc quan như các bài của Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn, Trần Mạnh Hùng, Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Chiến…

         Ngợi ca sự bất tử của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc cũng chính là ngợi ca lòng dũng cảm, đức hy sinh cao đẹp của phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại. Có lẽ chẳng có thơ văn nào, giai điệu nào, màu sắc nào diễn đạt được hết sự hy sinh thầm lặng, cao quý của các cô. Mỗi chúng ta hãy cùng nhà thơ Trần Mạnh Hùng hành hương về Đồng Lộc:

             Anh về Đồng Lộc, em ơi

   Nén nhang tưởng niệm thay lời hát ru…

 

                                             Lê Xuân

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm