TIN TỨC
  • Truyện
  • Bay lên nào | Tiến Luận

Bay lên nào | Tiến Luận

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-10-28 08:08:59
mail facebook google pos stwis
1143 lượt xem

 CUỘC THI TRUYỆN NGẮN HAY 2022

TIẾN LUẬN

Mặt trời đã lên khỏi rặng tre. Những tia nắng đầu thu rực rỡ lênh láng trên những khóm cây, chảy tràn xuống con ngõ nhỏ vào đến sân nhà, cũng là lúc lão Phòng đi đánh sập chim ngói về. Lão dựng xe đạp bên gốc cây, rồi tháo chiếc lồng buộc ở sau xe đặt giữa sân. Lão hả hê gọi: “Cô Thụy đâu rồi ra mà xem này!”. Thụy buông vội bát đũa bước ra nhìn chiếc lồng chim chật cứng, dễ đến vài trăm con. Con màu hồng, con màu xanh, đôi mắt tròn xoe đen nhánh ngây ngô như đứa trẻ. Chúng nháo nhác chen chúc nhau cố thò mỏ ra khỏi nan lồng. Thụy buông một câu chẳng ra khen, cũng chẳng ra chê: “Nhiều thế!”. Lão Phòng bảo: “Hôm qua có mấy bác đại gia từ thành phố về. Họ đã từng ăn nhiều của ngon, vật lạ. Giờ lại thèm những thứ ở quê như: cào cào, bọ xít, ếch nhái, cua đồng và chim ngói. Tay trưởng đoàn đặt mình một bữa thịt chim. Thật là may mắn, ông trời phù hộ đêm qua nổi gió mùa, nên sáng nay có những đàn chim bay rợp một khoảng đồng”. Nói xong, lão chỉ vào lồng chim: “Cô bắt chúng nó ra làm thịt cho tôi”.

Thụy thấy ớn lạnh nổi da gà. Những sợi lông tơ trên má, trên hai cánh tay dựng đứng lên. Thụy rất sợ giết chim. Những ngày Thụy mới về ở với lão, thường là lão Phòng làm thịt chim. Lão bảo Thụy: “Đứng mà xem tôi làm. Lần sau tự làm nhá!”. Thụy đứng tần ngần nhìn lão đưa hai ngón tay cái và ngón tay trỏ bóp chặt lấy mỏ con chim cho đến chết. Cũng có khi con chim chưa chết lão cũng cầm hai cẳng cho nó chúc đầu xuống rồi hơ vào lửa để thui sạch hết lông tơ, khiến nó đau đớn giãy đành đạch, làm cho Thụy khiếp vía!

Nhìn mặt Thụy tái xanh tái xám, lão hỏi: “Cô sợ à?”. Thụy năn nỉ xin lão: “Anh bảo em làm gì em cũng làm, còn bảo em giết chim thì em sợ lắm!”. Đôi mắt trắng dã của lão trợn trừng: “Giết chim chứ có giết người đâu mà cô sợ. Trưa đến nơi rồi. Mau tay lên kẻo làm nhỡ người ta. Đây là dịp may mình gặp được khách sộp. Chà! Bọn tiêu tiền chùa  này sẽ là cơ hội cho mình làm ăn đây”. Biết nói không, lão sẽ nổi cáu, Thụy đành lặng lẽ xách lồng chim ra bờ ao. Thụy thò tay tóm một con màu hồng béo mũm. Nó rúc cái đầu tròn tròn lông mượt như nhung vào lòng bàn tay Thụy buồn buồn. Đôi chân giãy đạp bứt được một bên cánh ra ngoài đập phành phạch. Tý nữa Thụy làm xổng một con chim, khiến lão Phòng lườm Thụy một cái rõ dài. Thụy lấy hết can đảm bẻ quặt đôi cánh con chim ngói ra đằng sau, rồi tréo hai cánh nó lại. Lẽ ra phải bóp mỏ cho nó chết rồi mới nhổ, vì sợ nên Thụy cứ để nó sống mà vặt từng nhúm lông ra. Con chim ngói bị đau giẫy giụa. Thụy thầm thì: “Ta hóa kiếp cho mày để chóng được làm người. Song mày chết chẳng biết có làm người được không, chứ giết mày thì ta thương lắm”. Thụy ứa nước mắt rồi đưa hai ngón tay bóp chặt vào mỏ nó. Con chim ngói bị nghẹt thở, hai chân chới với trên không, giãy giụa cố thoát ra khỏi tay Thụy. Lát sau cổ nó nổi chướng lên từng cục căng ra như cái bong bóng. Cái ức nó mới đầu còn phập phồng, sau đó chướng lên. Hai mắt mở to thao láo ngỡ ngàng nhìn Thụy như trách cứ: “Tôi có tội tình gì mà chị giết tôi?”. Thụy phải quay mặt đi. Con chim ngói giãy giụa một lúc rồi yếu dần. Đôi mắt nó từ từ khép lại. Đôi chân thẳng đơ.

Lão Phòng đã bước lên bậc cửa, song vẫn ngoái lại nhìn Thụy. Lão hài lòng, nhếch mép cười: “Có thế chứ. Tạo hóa có sinh, có diệt. Sinh ra con ngóe là để nó ăn con sâu, cái kiến; sinh ra con rắn là để nó ăn thịt con ngóe; con rắn lại làm mồi cho con trăn, con lợn; đến lượt con người lại ăn thịt con lợn… Cứ thế mà suy ra các loài chim đều là món ăn của con người cơ mà!”. Lão khoái chí cười khùng khục rồi bước vào nhà. Thụy vơ những con chim mới nhổ lông cho vào rổ. Nhìn chúng trụi húi lông, da tím tái. Mắt con nào cũng lồi ra. Thụy giật thót khi sờ vào con chim bên dưới đã chết cứng, lạnh như đá. Cái lạnh của sự chết chóc đến rợn người ấy khiến trái tim Thụy thảng thốt đập liên hồi. Thụy vừa thương vừa sợ chân tay bủn rủn. Thụy đưa mắt nhìn lão Phòng đang sửa soạn dao thớt mổ bụng chim. Lại nghĩ mới đêm qua đôi bàn tay to sều ấy của lão lần mò trên khắp cơ thể Thụy mà rùng mình ghê tởm.

*

Thụy về làm vợ lão Phòng cũng là sự cùng bất đắc dĩ. Năm ấy Thụy từ quê lúa Thái Bình ra mỏ tìm việc làm giữa lúc hòn than đang mất giá, nên không nơi nào tiếp nhận. Đang lúc chơ vơ giữa quê người đất khách thì gặp cô bạn cùng quê mách mối đưa Thụy đến làm cho một quán hát karaoke “Hát cho nhau nghe”. Thụy là người có nhan sắc, nhưng bấy lâu nay sắc đẹp của Thụy ẩn giấu trong bộ quần áo rộng thùng thình. Nay được phấn son, da dẻ thêm trắng trẻo. Mái tóc dài thướt tha vấn kiểu quê mùa, nay được cắt ngắn uốn lượn. Hằng ngày tiếp khách bà chủ bắt Thụy phải mặc quần đùi hoặc váy ngắn, người ta mới nhận ra sự nổi trội của gái quê trinh trắng, hồng hào. Một cái đẹp chân mộc khoẻ khoắn tràn đầy sức sống chứ không bây bấy ẻo lả, bợt bạt như gái thành thị.

Công việc những ngày đầu cũng nhàn hạ, chỉ có tiếp rượu bia với khách, hát với khách. Khách bá vai, bá cổ, hôn tay, hôn má, chép miệng một cái cũng cho qua. Đến hôm bà chủ bắt Thụy phải tiếp khách làng chơi. Bấy giờ Thụy mới ngã ngửa người hiểu ra cái quán hát karaoke của mụ Nhã là cái quán bán dâm. Thụy muốn trốn mà không sao trốn được. Suốt ngày phải tiếp khách. Toàn những quan chức đại gia. Họ chỉ thích đến cửa hàng “Hát cho nhau nghe” bởi có Thụy - cô gái quê trẻ trung xinh xắn, hát hay làm cho  nhiều cửa hàng trong phố mất khách. Họ tức tối, ganh ghét, thù hằn thuê kẻ côn đồ đón đường tạt a-xít vào mặt. May mà Thụy tránh được. Qua cơn nguy hiểm Thụy mới nhận ra lòng ghen ghét, đố kị trong sự cạnh tranh là mối đe dọa luôn rình rập Thụy. Giữa lúc Thụy đang hoang mang kinh hãi thì một đêm nhà chức trách ập vào bắt cả lũ, đưa Thụy cùng đồng bọn đi cải tạo. Hai năm mãn hạn, Thụy được trả tự do. Người ta thì có người thân đến đón, Thụy chẳng có ai. Một mình vai ba lô, tay túi xách lững thững bước đi trên con đường phố vắng. Biết đi đâu, về đâu? Về nhà thì cha mẹ không còn. Hơn nữa tránh sao khỏi những lời ong, tiếng ve. Nhục lắm! Đầu óc rối bời, bước chân vô định, Thụy đi tới một bến sông có con đò đang chờ khách. Một người đàn ông xách lồng chim, vác lưới định bước xuống đò. Nhìn thấy Thụy, anh ta reo lên: “Cô Thụy đấy ư? Được sổ lồng rồi à?”. Thụy nhận ra lão Phòng. Thụy quen lão Phòng trong những ngày ở trại giáo dưỡng. Thụy hỏi “Vì sao phải vào tù?”. Phòng bảo là do đánh bạc. Thế rồi lão kể cho Thụy nghe một canh bạc nhớ đời của lão: hôm ấy con thuyền chã tôm chở năm con bạc thả trôi trên sông. Không hiểu sao canh bạc ấy vận đỏ lại đến với lão. Lão vét nhẵn túi của bốn con bạc kia. Đang hí hửng vì đầy căng hai túi tiền thì bất ngờ bị 4 con bạc thua xúm lại vật ngửa lão ra cướp lại sạch sành sanh, rồi đứa cầm tay, đứa cầm chân quẳng lão xuống sông. Lão cố vẫy vùng bơi vào bờ, nhưng gió to, nước ngược làm lão mệt lử không nhấc tay lên khỏi mặt nước được nữa. Đang dập dềnh như con thiềng liễng giã gạo thì một con tàu tuần tiễu của công an chạy tới vớt được lão lên rồi đuổi theo con thuyền chã tôm bắt nốt những con bạc còn lại. Thụy nhìn gương mặt lão có vẻ hiền hiền trừ hai con mắt sâu, đen khi ngước lên như hai hình tam giác là tỏ ra sắc sảo. Sống trong những ngày dài lê thê trong trại giam cô đơn, trống trải và nỗi sợ hãi mơ hồ, con người ta mới động lòng trắc ẩn, mới ân hận những việc mình làm và thèm khát một khung trời tự do, nên con người muốn xích lại gần nhau để an ủi, sẻ chia. Thụy đã quen thân với lão Phòng. Từ ngày lão được ra khỏi trại giam, Thụy không hay tin tức gì về lão. Nào ngờ hôm nay lại gặp lão tại bến sông này.

- Bây giờ em về đâu? - Lão Phòng hỏi.

- Em muốn về quê nhưng còn ngại…

- Em về quê liệu có sống được không? Người ta sẽ ghẻ lạnh, tiếng bấc

tiếng chì làm sao mà ngẩng đầu lên được.

Thụy im lặng. Hai giọt nước mắt lăn trên má. Lão Phòng nói tiếp:

- Tôi thật lòng nói với em, tôi đã có một đời vợ. Khi tôi vào tù thì nó bỏ tôi luôn. Em về ở với tôi, em sẽ không phải làm ruộng chân bùn tay lấm. Em chỉ đi chợ bán chim cũng đủ tiêu xài. Quê tôi gìờ cũng dễ làm ăn lắm vì đã có cây cầu bắc qua sông và có đường cao tốc đi qua, thuận lợi cho khách du lịch thăm thú. Chúng mình sẽ mở một quán ăn đặc sản - thịt chim.

Vừa qua một chuỗi ngày đắng cay tủi nhục, Thụy càng thấm thía nỗi buồn trống vắng cô đơn. Thụy mường tượng mình như con thuyền không lái tròng trành trước muôn ngàn con sóng dữ. Thế là chẳng đắn đo gì nữa, Thụy bằng lòng về ở với lão Phòng…     

*

Quê lão Phòng là một vùng đảo trù phú, 4 mùa cây cối xanh tươi, lại gần biển, gần rừng nên chim từ rừng bay xuống, từ biển bay vào nhiều vô kể. Đánh bắt chim là một thú vui, cũng là nguồn thu nhập đáng kể của dân vùng đảo. Trong số những người đánh chim “hay” nổi tiếng có lão Phòng.

Mùa xuân, lão đi đánh sập chim gáy. Mùa hạ, lão vác lưới lên rừng lùng đánh chim xanh. Sang tháng 8 có gió heo may rải đồng là mùa chim ngói. Chưa ai nhìn thấy tổ chim ngói, cũng chưa ai nhìn thấy chim ngói non bao giờ. Chỉ biết rằng chúng bay từ biển bay vào chỉ khi có gió mùa đông bắc. Có người bảo chúng là loài chim di trú từ các miền đảo cực bắc xa xôi bay đi tránh rét. Có người bảo chim ngói là do con cá mòi lột xác mà ra. Bằng chứng là con chim ngói nào cũng có một đường viền đen quanh cổ y hệt con cá mòi. Với người săn chim thì lại bảo chim ngói không có mật nên dại không nhớ chóng quên. Thì đấy! Ai không tin hãy đi xem những người đánh sập chim thì biết. Đàn chim vừa bị úp lưới ở bàn này, còn sót con nào hốt hoảng bay đi đến bàn kia thấy các bạn chim vẫy vẫy cánh là sà xuống ngay. Dại ơi là dại!

Lão Phòng bảo: “Toàn những anh nhắm mắt nói mò”. Con chim ngói cũng có trí khôn và tình cảm như ai. Chẳng qua là nó đang sống ở những vùng đảo xa xôi, người yêu quí chim, chim thân thiện với người. Chúng tự do bay nhẩy, tự do kiếm mồi. Chúng đâu biết rằng những con người ở đất liền lại độc ác, thâm hiểm dùng chính đồng loại nó để làm những con mồi dụ dỗ nó sa lưới?

Lão Phòng có những con mồi được tuyển chọn rất công phu. Vào tiết tháng 5, tháng 6, trời nắng chang chang, lão chọn trong chuồng những con chim ngói màu hồng, lông mượt, đuôi dài, mình thon, mịn màng như bắp chuối trổ nải rồi dùng sợi dây dứa dại khâu hai mắt nó. Xong, buộc sợi dây len vào chân với chiếc cọc cắm ngoài sân. Con chim ngói đứng trên hòn đất ngoài trời nắng chang chang không chịu được giãy giụa bước xuống. Hai chân nóng như phải bỏng, nó phải vội vàng nhẩy lên mô đất. Chỉ một lát thôi nó lại bước xuống, nóng chân là vội vã bước lên. Cứ thế nhiều lần thành quen không giãy giụa nữa, chịu đứng yên - nó đã trở thành con chim mồi. Trong những con chim mồi đó, lão lại chọn con chim nào có đôi cánh dài bay khỏe làm con chim mồi tung. Con chim nào chịu đứng gan lì làm con mồi bàn, mồi xoè. Lão Phòng thường đi đánh chim một mình. Những hôm động trời gió bấc chim sẽ bay nhiều, lão mới bảo Thụy đi trợ giúp.

Buổi sáng hôm ấy hai vợ chồng lão Phòng xách lồng, vác lưới lên cánh đồng thôn Thượng. Đặt lưới xong trời cũng vừa sáng. Lão đứng bên ngoài chòi lá hướng mắt về phương đông. Mặt trời đã ló sau rặng tre. Từng cơn gió thu se lạnh thổi dạt những đám mây trôi để lại cho bầu trời một màu xanh ngăn ngắt. Lão Phòng thì thầm: Sáng nay động trời nhất định chim ngói sẽ bay về nhiều. Thế mà trông mãi chỉ thấy đàn chim móc còng, lão mới sực nhớ ra hôm nay nước kém có thể chim ngói sẽ ít bay hơn. Lão đưa bàn tay lên che nắng cho đỡ chói mắt, rồi lại căng mắt ra nhìn về phương Đông. Bỗng xuất hiện những chấm đen li ti như một đám bụi. Mỗi lúc một rõ dần, cho đến khi nhìn rõ những cái đầu tròn tròn, xinh xinh của đàn chim ngói, lão mới cầm con mồi tung, tung lên không. Con mồi tung vỗ cánh bay cao. Nó bị giới hạn của sợi buộc chân, nên đến độ cao non chục sải tay thì dừng lại vẫy cánh. Con chim đầu đàn nhận ra đồng loại, tưởng bạn mời gọi xuống ăn mồi, nên quay đầu lại. Cả đàn bay theo. Ngồi trong chòi lá, lão Phòng lần lượt giật dây từng con mồi bàn. Mới có 3 con bay lên, đàn chim đã rào rào hạ cánh xuống. Lão Phòng giật tiếp dây con mồi xòe. Chiếc cần tre buộc chân con mồi xòe nâng lên, hạ xuống đôi cánh nó rập rờn y chang con chim vừa tiếp đất. Thế là cả đàn sà xuống như lá rụng mùa thu. Lão Phòng kéo mạnh dây bồng. Hai cánh lưới từ mặt đất vút lên như hai cánh tay khổng lồ chụp xuống. Ước đoán đến già nửa đàn chim đã nằm gọn trong lưới.

Nghe tin lão Phòng đánh bắt được nhiều chim ngói, khách đến cửa hàng ăn rất đông. Lão Phòng phải thuê người nhổ lông chim làm thịt. Người băm viên đồ xôi, người kẹp từng con chim vào hai thanh tre làm chả nướng trên bếp than hồng. Từng giọt mỡ lèo xèo rơi xuống thơm nức mũi. Lão Phòng bảo Thụy phải môi son, má phấn, mặc váy ngắn, áo thun. Hôm ấy có 3 vị đại gia nhậu nhẹt tới khuya, nói năng cợt nhả. Một gã nắm lấy cổ tay Thụy hát: “Cầm tay anh nắn cổ tay/anh nắn, anh bóp, anh day cho tròn…”. Gã quàng tay ôm lấy Thụy hôn chụt một cái vào má. Thụy vùng vằng gỡ tay gã ra đang định tát vào mặt gã một cái thì lão Phòng chạy vào kéo Thụy ra ghé vào tai nói nhỏ: “Em chiều hắn một tí ti thôi chứ có mất gì của bọ”. Thụy chạy về phòng đóng chặt cửa lại…

 *

Đêm ấy cũng như nhiều đêm sau nữa Thụy cảm thấy bất an. Nhớ cái hôm đi đánh sập chim với lão Phòng, Thụy mới ngộ ra nhiều điều. Những con chim mồi tung, mồi bàn, mồi xòe của lão Phòng đã dẫn dụ đàn chim ngoài trời sa lưới mà người ta gọi chúng là những con chim mồi! Con chim mồi biết nghe lời chủ, có nhiều mánh khoé dẫn dụ bạn, người ta gọi là chim mồi hay. Suy ra chim mồi càng hay càng hại nhiều đồng loại. Bất giác Thụy nghĩ đến cô bạn gái cùng quê dẫn dụ Thụy vào quán hát. Giờ về làm vợ lão Phòng, lão lại muốn dùng Thụy để làm con mồi dẫn dụ khách! Bao năm bươn bả đi tìm hạnh phúc, mà hạnh phúc với Thụy chỉ là một giấc chiêm bao. Cuộc đời đắng cay, tủi nhục của Thụy suy ra cũng chỉ là con chim mồi! Một ý nghĩ chợt đến “phải thoát khỏi sự trói buộc để như con chim tung cánh trong bầu trời tự do”. Thụy trở dậy thu xếp quần áo cho vào ba lô rồi rón rén bước ra ngoài sân. Trời mới tang tảng sáng. Lão Phòng vẫn miên man trong mộng mị. Tiếng ngáy của lão khè khè như con lợn bị chọc tiết. Thụy đến chiếc lồng nhốt những con chim mồi thủ thỉ với chúng: “Chúng mày là những con chim mồi hay. Từ khi về với lão Phòng đến nay chúng mày đã dụ dỗ được bao nhiêu các bạn? Biết không?”. Lũ chim mồi giương đôi mắt tròn xoe ngơ ngác nhìn Thụy rồi chúng sù lông cánh, chúc mỏ xuống như người nhận lỗi. Thụy thò một ngón tay vào lồng nâng mỏ một con chim ngói lên: “Giờ ta thả cho chúng mày về với bầu trời nhé!”.

Thụy mở cửa lồng bắt từng con chim ngói tung lên không và nói: “Bay lên nào!”. Từng con một bay đến đỗ trên ngọn tre trước nhà. Hình như chúng cũng có điều gì lưu luyến nên đậu chụm lại với nhau làm cho cành tre cong xuống như một dấu hỏi lớn. Thụy phải giơ tay: “Bay lên, bay lên đi!”. Lúc ấy lũ chim mới rào rào vỗ cánh bay ra phía cánh đồng. Thụy cũng theo cánh chim ra khỏi làng thì mặt trời cũng vừa ló rạng đỏ ối một vầng đông.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm
Bay trong gió núi - Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Tôi nằm đây nghe tiếng lục lạc kêu. Thứ âm thanh đinh đinh đang đang mỗi buổi chiều người ta lùa đàn bò đi qua khiến cho linh hồn tôi cảm thấy thật rộn ràng, vui tươi và khoan khoái lạ kỳ. Cái cảm giác này trước đây chưa bao giờ tôi có được. Giờ thì, tôi đã cảm nhận thấy thật rõ ràng thứ âm thanh đó, cùng với hương vị nồng nồng âm ấm của đất, mùi chan chát mằn mặn của đá, mùi thơm thoang thoảng của cỏ voi, mùi ngòn ngọt chua chua của những bông hoa tam giác mạch ai đó làm vương hạt trên nấm mộ tôi.
Xem thêm
Người phụ nữ nhỏ nhất thế giới - Truyện ngắn của Clarice Lispector
Trong tận vùng sâu thẳm của châu Phi xích đạo, nhà thám hiểm người Pháp Marcel Pretre, một thợ săn và kẻ sành đời, đã bắt gặp một bộ tộc Pygmy nhỏ bé đến đáng ngạc nhiên.
Xem thêm
Chiếc bọc nhung - Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Đốp! Con heo đất vỡ toang, mớ tiền nằm xen lẫn những mảnh vỡ, lăn lóc trên nền nhà gạch tàu cũ kỹ, Khiêm nhanh tay mở mấy tờ giấy bạc, bung ra cho thẳng thóm. Những tờ giấy bạc nhăn nhúm, phai màu vì nhuốm mồ hôi và nằm xộc xệch trong cái túi quần khi Khiêm nhét vội.
Xem thêm
Hận thù và Yêu thương – Truyện ngắn Đông Sơn Lữ Khách
Có những vết thương chiến tranh tưởng chừng đã ngủ yên trong ký ức, nhưng chỉ cần một ký hiệu, một hình xăm, một cái tên… tất cả lại ùa về như ngày hôm qua. Thế nhưng, giữa bóng tối ấy, tình yêu của một chàng trai Việt và một cô gái Hàn đã thắp sáng hi vọng – hi vọng rằng hận thù rồi cũng sẽ nhường chỗ cho yêu thương.”
Xem thêm
Kịch hay – Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân
Vài tấm hình được quăng trên chiếc bàn kính, bên trong hiện rõ hình hai người dường như có cảm giác đang tựa vào nhau nhưng vẫn còn do dự vì bị sự ràng buộc bởi miệng lưỡi của người đời. Bóng chiều tà từ từ đổ xuống khung cửa sổ bằng kính của ngôi nhà sang trọng. Thứ ánh sáng cuối ngày có màu hồng đậm vẫn kịp hắt vào khiến đôi mắt người phụ nữ đột nhiên cũng ửng hồng và bắt đầu đong đầy hoàng hôn trong đó.
Xem thêm
Lời thề sinh tử - Truyện ngắn của Phạm Thanh Thúy
Thuôn không muốn lão Nhạc vào nhà. Lão Nhạc già lụ khụ, ăn mặc lôi thôi, dù con cái lão cũng chẳng đến nỗi nào.
Xem thêm
Người đến từ nghìn trùng – Truyện ngắn Chu Phương Thảo
Tôi sinh ra ở một làng chài nhỏ, nơi những triền cát trắng kéo dài đến tận chân trời, nơi gió và sóng chạm nhau cùng thì thầm những bản tình ca êm dịu. Tuổi thơ tôi trôi qua như một giấc mơ dịu ngọt, vắt qua những buổi chiều vàng nắng, theo tiếng cười hồn nhiên vang vọng bên những mái nhà thấp thoáng khói lam chiều. Cuộc sống tuy chật vật, nhưng lòng người nơi ấy rộng như biển cả, ấm như nắng sớm.
Xem thêm
Trôi trên sông trăng – Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Mưa sầm sập. Mưa ào ào. Ánh trăng loang loáng trong làn mưa, vỡ tan trong ánh chớp. Trong màn đêm tối đen mịt mùng, xung quanh chỉ vọng lại tiếng nước đổ ào ào từ trên núi xuống. Tiếng bước chân chạy uỳnh uỵch trong đêm.
Xem thêm
Phán chấu. Truyện ngắn của Nông Quốc Lập
Tiếng gọi cầu cứu của thằng Bun như xé toang khoảng không gian ra thành nhiều mảnh. “Cứu cái gì, cứu ai, cháy nhà à, giết người à, rắn cắn à…?” Tiếng những người làng hỏi nhau, những cặp mắt tròn xoe, ngơ ngác. Dù không biết chuyện gì xảy ra với nhà Bun, nhưng khi nghe tiếng gọi cứu thì ai cũng ra khỏi nhà hướng về nơi có tiếng gọi.
Xem thêm
Bông bí vàng trên giàn mướp hương - Truyện ngắn Phan Thành Đạt
Hưng rón rén bước lên thềm, gõ cửa. Không ai đáp. Chỉ có tiếng chim trên giàn, tiếng cá quẫy nhẹ dưới ao. Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh một cậu trai thành phố đứng giữa sân quê bỗng trở nên bé nhỏ, lạc lõng – nhưng cũng là khởi đầu cho một mùa hè không giống bất cứ mùa hè nào trước đó.
Xem thêm
Người đàn bà vẽ tranh kiếng – Truyện ngắn Lưu Kiều Nhi
Tôi về đến nhà đúng lúc ba và chị Hai đang hì hục đem mớ tranh kiếng của má ra cất ở nhà kho phía sau. Tôi biết ngay là má có việc đi đâu đó nên hai người họ mới cả gan đến thế. Chị Hai nói má không chịu ở nhà nghỉ dưỡng bệnh, lại lén đi lặt cuống ớt với mấy người đàn bà trong xóm. Ba cười hiền lành bảo: Kệ bả. Bắt bả ở nhà hơn bắt cóc bỏ dĩa. Lại phụ ba một tay, dọn cho xong đống nợ này đi bây!
Xem thêm
Án ma ni thiên ý - Truyện ngắn Ny An
Ở gần cuối xã Xay Xát, đi qua khỏi con dốc sỏi đá bụi bay xám mặt sẽ tới Quán Phật. Hai lùm thiết mộc lan um tùm đứng trước ngõ hút tài lộc, nở bông ngào ngạt mỗi tối. Quán Phật nằm giữa khu vườn thuốc nam, lắp camera từ ngõ vào tới cửa và phòng khách. Bờ tường gắn lưới thép B40 ngăn khu vườn với dải cát trắng trải dài đầy dứa dại, cây bụi và xương rồng gai nhọn tua tủa.
Xem thêm