TIN TỨC

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-24 16:22:04
mail facebook google pos stwis
108 lượt xem

 (Kỷ niệm 440 năm ngày mất Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, 1585 - 2025)

TRẦN NGỌC TUẤN

Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về Trạng Trình Quốc Công như sau: “Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn. Ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều môn đệ tiếng tăm lẫy lừng như Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Giáp Hải, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Nguyễn Văn Chính... Những người này có sở học đạt đến trình độ uyên bác và đều là danh thần vang tiếng một thời. Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy bóng dáng Nguyễn Bỉnh Khiêm rất lớn, là cây đại thụ che mát cả một khoảng sân rộng của lịch sử và văn học  thời kỳ trung đại.

Tượng đài Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm

Xuất thế để... hành đạo!

So sánh về thái độ “nhập thế” để hành đạo với đời thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần giống với Phan Bội Châu, vì cả hai đều bất mãn thời cuộc mà buổi đầu “ẩn chí đợi thời”, chẳng màng thi thố tài năng.

Trong lúc, về sau, Phan Sào Nam với than vắn thở dài rằng “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” nhưng vì bất đắc dĩ với chữ “danh” để mà hành sự, vậy nên phải quy lụy quan trường tòng theo lời răn của Khổng Tử: danh phải chính để cho ngôn được thuận. Thì trước đó, trong thời buổi Lê suy, “không còn cảnh tượng thái bình”, “khắp nơi chỗ nào cũng máu chảy thành sông, xương chất thành núi”, Trình Quốc công không chịu ra thi, mà ẩn sĩ chờ thời. Phải đến khi nhà Mạc thay Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra ứng thí. Và chỉ cần xắn tay vẩy bút, cả hai người đều đã đỗ giải nguyên.

Về thái độ “xuất thế” để lánh đục tìm trong, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có phần giống Tam nguyên Yên Đỗ. Vì, Bạch Vân Cư Sĩ cáo quan ẩn dật sau tám năm ngao ngán lộng thần nơi chốn quan trường, thì Nguyễn Khuyến cũng chỉ làm quan được mười năm rồi cáo quan. Và, cả hai từ quan nhưng đều canh cánh trong lòng bởi trách nhiệm kẻ sĩ. Thế mà cách ứng xử sau đó lại khác. Nguyễn khuyến dù day dứt “Ơn vua chưa chút báo đền/ Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời” nhưng lại có phần cự tuyệt khi dặn con: “Đề vào mấy chữ trong bia/ Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” (Di Chúc). Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, “vì muốn tác động đến thời cuộc và vì sự ràng buộc của nhà Mạc đối với những sĩ phu có uy vọng, ông đã trở lại tham chính” (Từ điển văn học, Bộ mới, NXB Thế Giới, tr 1108). Rồi sau đó phải đến bảy mươi tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới treo mũ từ quan.

Vì vậy, có thể thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hiện tượng khá đặc biệt trong liệt sử trung đại. Trong con người, ông là người nhập cuộc với triết lý Khổng giáo. Trong sáng tác, nhất là khi về ẩn, lập “quán”, xây chùa, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa có thiên hướng thế sự vừa nhuốm nhiều màu sắc tư tưởng Lão Trang.

Đoạn “trung chuyển” trong “dòng chảy” thơ Nôm dân tộc

Xét về vị trí của các tác giả trong dòng chảy văn học, nếu Nguyễn Trãi là người kết tinh thời kỳ vàng son văn hóa Lý – Trần, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là người theo sau, kế thừa tinh hoa Nguyễn Trãi và đạt đến đỉnh cao, thêm một bước hoàn thiện cả về tư tưởng, bút pháp, và thể loại cho thi ca dân tộc. Chỉ cần so sánh Nôm đủ cho ta thấy điều đó: Nếu Quốc âm thi tập (được xem là tập thơ viết bằng chữ Nôm sớm nhất của văn học nước nhà), mặc dù được Nguyễn Trãi ý thức cách tân “Nôm hóa” thơ thất ngôn Đường luật chữ Hán bằng nhiều câu thơ lục ngôn, song vẫn còn đậm đặc yếu tố cổ điển. Thì đến Bạch Vân quốc ngữ thi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “lột xác” cho thơ Nôm dân tộc, “Việt hóa” rất nhiều, từ ngôn từ, mỹ cảm cho đến tâm thức… Tất cả đều nhuốm màu thế sự, thấm đẫm hơi thở thời đại, đậm đặc đạo lý luân thường. Mà phải chờ khá lâu sau đó, chờ đến áng thơ Nôm trác việt kết tụ linh hồn dân tộc Truyện Kiều (Nguyễn Du) và thơ Nôm của “bà Chúa” Hồ Xuân Hương, dòng chảy thơ Nôm Việt Nam mới thật sự thăng hoa, đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo. Nhìn bao quát ra như thế để thấy rằng, trong dòng chảy ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là chiếc cầu nối, là một mắt xích quan trọng, là vị trí khó có thể thiếu trống.

Bạch Vân quốc ngữ thi là đoạn trung chuyển của dòng chảy ấy, mà tiêu biểu nhất là bài thơ Nhàn (Thú nhàn). Bài thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 10. Đây được xem là bài thơ khá đặc biệt vì nó kết tinh tư tưởng sâu sắc quan niệm sống của những bậc đại hiền triết thức giả Á Đông xa xưa. Những chiêm nghiệm sống ấy của tác giả ngày nay vẫn còn nguyên những giá trị thực tiễn với nhiều thâm thúy sâu sắc trong cách nhìn và quan niệm nhân sinh sâu sắc.

Nhà tiên tri “số 1” của dân tộc

Nhiều giai thoại và sử sách ghi lại Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri với nhiều lời “sấm” truyền, những lời mách bảo nhằm hạn chế chiến tranh đổ máu, hạn chế dịch bệnh. Theo Wikipedia tiếng Việt: “Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau”. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ thế kỷ 16.

“Sấm Trạng Trình” từng mách bảo nhà Mạc chạy lên Cao Bằng lập nghiệp. Từng khuyên Trịnh Kiểm “giữ chùa thờ Phật được ăn oản”, căn cớ lập nên nhà Lê. Từng khuyên chúa Nguyễn Hoàng lập nên vùng đất Thuận Hóa với câu nói ẩn ý nổi tiếng “hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”. Tại xã Nam Tân (Nam Đàn, Nghệ An) còn lưu lại câu chuyện về khe Bò Đái, gắn liền với câu sấm truyền đời được cho là của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Nam Đàn sinh thánh”. Cũng phải chăng vì lý do này mà trong Cao Đài Tam Thánh (thờ tại Tòa thánh Cao Đài tỉnh Tây Ninh), người ta lại chọn Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng cạnh nhà cách mạng Trung Quốc Tôn Dật Tiên và đại văn hào Pháp Victor Hugo...

Triết lý ý vị từ bài thơ “Nhàn” 

Bài thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 10. Đây được xem là bài thơ khá đặc biệt vì nó kết tinh tư tưởng sâu sắc quan niệm sống của những bậc đại hiền triết thức giả Á Đông xa xưa Những chiêm nghiệm sống ấy của tác giả ngày nay vẫn còn nguyên những giá trị thực tiễn với nhiều thâm thúy trong cách nhìn theo chiết tự Hán học.

Thứ nhất, sự thâm thúy của bài thơ thể hiện ở nhan đề “Nhàn”, mặc dù nó được người đời sau đặt. Trong Hán tự, chữ “nhàn” được ghép bởi bộ “nhân” (“nhân” đứng, là người, đứng bên trái tự) hội ý với bộ “môn” (là cửa), trong bộ “môn” có bộ “nguyệt” (là trăng). Khi hội ý như thế, chữ “nhàn” có nghĩa là: người thảnh thơi ngắm trăng rọi vào khung cửa. Như vậy, lúc nào mà chúng ta có những giây phút giao hòa với thiên nhiên như thế mới gọi là nhàn. Ngày nay, để có được những phút giây như thế thực là rất hiếm lắm thay.

Trong bài thơ có câu này: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”. Nơi vắng vẻ là nơi nào? Là nơi “sơn lâm” (rừng núi) mà cái lẽ đời người ta thường nói “Bần cư tại thị vô nhân vấn/ Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. Đọc câu thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi lại nhớ đến một Hán tự khác, đó là chữ “tiên” (ông Tiên, ông Bụt). Theo sự hội ý của từ này thì “tiên” không phải là người trên trời mà là người trên núi (sơn). Vì chữ “tiên” được ghép bởi bộ “nhân” (như nói ở trên) và bộ “sơn” (đúng bên phải). Nghĩa là người sống trên núi thì được gọi là tiên. Mà dân gian ta hay nói “sướng như tiên”. Vậy thì xem ra Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có… dại! 

Ở cặp câu kết, tác giả viết: “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiếm bao”. Tôi xin không bàn câu thơ sau, mà chỉ bàn đến câu nói về… “tửu đạo”.  Rượu, ừ thì uống chứ. Uống một cách ung dung, tự tại, chẳng ai cấm, không ai ép. Nhưng mà uống dưới gốc cây kia, uống như cụ Nguyễn Khuyến để vừa ngoạn cảnh thu Bắc bộ kia. Chứ tuyệt nhiên không uống ở… nhà hàng, quán bar, vỉa hè, đường phố như cách nhìn  kiểu “lô nhô loài người” của nhạc Trịnh. Uống dưới “cội cây” là uống giữa thiên nhiên, uống để tịnh trí, tịnh tâm, tịnh dưỡng.

Nói đến đây tôi lại nhớ đến chữ “hưu” (nghỉ hưu, hưu trí) trong chữ Hán. Chữ này gồm bộ “nhân” (cũng như đã nói trên) ghép với bộ “mộc” (cây, bên phải). Nghĩa là, theo người xưa, nghỉ hưu, về hưu là về ở dưới gốc cây, về với vườn tược, thiên nhiên. Chứ không phải về ở… trại dưỡng lão, về với… bốn bức tường lạnh giá và với chiếc tivi nóng hổi thế sự. Không phải về để mà… nuôi cháu giữ chắt đàn đàn đống đống như bao cụ ông cụ bà ngày nay!                

  T.N.T                                                                                             

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm