TIN TỨC

Quang phổ con người

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-10 12:11:45
mail facebook google pos stwis
15 lượt xem

Vũ Tuấn Hoàng

Tôi quen biết Micheal lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm sách lớn nhất hành tinh – Frankfurt messe năm 2023. Tôi dừng chân trước gian hàng sách của đất nước Ireland chỉ vì trong tuyển tập dịch thơ ca thế giới Thơ Không Tuổi của tôi có năm bài thơ của một thi sĩ lừng danh, người đoạt giải Nobel năm 1923, người con của đất nước này là William Butler Yeats.

Nhà văn  Micheal 

Hai chúng tôi ngồi xuống sau chiếc bàn nhỏ và chuyện trò thân mật như hai người bạn đã quen biết từ lâu. Văn chương đã xóa nhòa mọi rào cản về khác biệt chủng tộc.  Micheal hỏi tôi nhiều về phản ứng của độc giả Việt Nam với các tác phẩm của văn học Ireland. Nhất là các tác giả tầm cỡ thế giới như James Joyce và Yeats. Và, chúng tôi đều có chung một nhận định “Chúng ta biết về nhau quá ít ỏi”.

 Anh đề nghị tôi dịch các nhà thơ đương đại Ireland sang tiếng Việt. Anh tặng tôi tập truyện ngắn Quang Phổ Con Người mới xuất bản của mình và chỉ cho tôi tên của họa sĩ vẽ bìa. Một họa sĩ Việt Nam, người Sài Gòn...

“Có lẽ, đó cũng là cơ duyên mà hôm nay chúng ta gặp nhau tại đây” – Anh cười và bắt tay khi chào tạm biệt.

Micheál Ó Conghaile, sinh năm 1962 tại Inis Treabhair, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Connemara, được độc giả nói tiếng Ireland biết đến như một nhà văn từng đoạt nhiều giải thưởng văn học danh giá. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông,      Mac an tSagairt (1986), An Fear a Phléasc (1997) và An Fear Nach nDéanann Gaire (2003), một số trong đó đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau như tiếng Albania, Croatia, Đức, Macedonia, Na Uy, Ba Lan, Romania và tiếng Slovenia, đã giành được nhiều giải thưởng.

Ó Conghaile luôn ủng hộ và tạo điều kiện cho việc dịch những tác phẩm văn học tiếng Ireland hay nhất và cho rằng, việc dịch sang tiếng Anh thúc đẩy văn học tiếng Ireland trên toàn thế giới, tạo thuận lợi cho việc dịch sang các ngôn ngữ khác.

“bất kể một cuốn sách được xuất bản thường xuyên như thế nào, rồi được được ca ngợi tốn giấy mực đến đâu, lời khen ngợi đó đều vô nghĩa đối với độc giả tiếng Anh không biết tiếng Ireland cho đến khi họ có thể đọc bản dịch”. Có lẽ cũng là kinh nghiệm sát sườn của O Conghaile khi gửi truyện “Athair” cho Sunday Tribune. Câu chuyện vẫn còn đó, không được thừa nhận hay chấp nhận cho đến một năm sau khi Ó Conghaile tình cờ gửi  bản dịch tiếng Anh của tác phẩm. Nó được xuất bản và đưa vào danh sách rút gọn của Tribune cho truyện ngắn của năm, sau đó tác phẩm đã giành chiến thắng trong cuộc thi và mang về cho Ó Conghaile Giải thưởng Nhà văn Hennessy danh giá của năm. Sự công nhận là điều quan trọng đối với các tác giả và ít tác giả nào muốn tác phẩm của mình bị che khuất, không thể hiểu thấu của các tạp chí tiếng Ireland hoặc trên những kệ sách dưới cùng của các hiệu sách.

Quyết định viết bằng tiếng Ireland của Ó Conghaile không phải vì động cơ chính trị hay mang tính văn hóa. Ông viết bằng tiếng Ireland không phải vì tình yêu với ngôn ngữ này mà vì đó là ngôn ngữ đầu tiên của ông - Ngôn ngữ mà ông sáng tác tốt nhất.  Nếu ông cảm thấy thoải mái hơn khi viết bằng tiếng Anh thì đó sẽ là phương tiện ông ấy lựa chọn. Ông chưa bao giờ hình dung mình sẽ viết bằng tiếng Anh, nhưng vẫn rất vui khi tác phẩm của mình được dịch sang tiếng Anh.

     Micheál Ó Conghaile là một trong những người tiên phong về truyện ngắn ở Ireland. Ông được biết đến nhiều nhất với những câu chuyện kỳ ​​ảo, hậu hiện đại, phi hiện thực ghi lại những sự kiện đáng kinh ngạc, những sự kiện không thể xảy ra và những hành động kỳ lạ. Ông cũng rất giỏi về chủ nghĩa hiện thực cổ điển, và những câu chuyện cảm động và dịu dàng này tương phản với năng lượng ngôn từ và khiếu hài hước đen  trong tác phẩm phi hiện thực của ông. Những màu sắc rực rỡ của bộ sưu tập này cười lớn và hét lên với chúng ta để cùng tham gia vào những chuyến phiêu lưu hỗn loạn của họ và kêu gọi chúng ta suy ngẫm về những khoảnh khắc mất mát sâu sắc, những thách thức nghiêm trọng và bao nỗi sợ hãi lạnh sống lưng. Nếu có một chủ đề lặp đi lặp lại trong những câu chuyện này, thì đó là điệp khúc rằng sống chứ không phải cuộc sống mới là thiêng liêng. Cuốn sách này tôn vinh sự phong phú của tất cả các màu sắc của con người . 

Tuyển tập này, bao gồm mười bảy câu chuyện trong suốt hai mươi sáu năm sáng tác, không chỉ thể hiện nhiều phong cách, cả về văn chương và ngôn ngữ, mà còn thể hiện sự khéo léo trong phong cách đặc trưng cho tác phẩm của Ó Conghaile và khẳng định ông là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc nhất trong thế hệ của mình.

Tôi xin dịch giới thiệu một truyện ngắn mang tựa đề “ Quang Phổ Con Người” cũng là tên của tập truyện ngắn của ông.

 

Tôi đã ở cùng anh ấy đêm đó. Thật vậy, tôi là người cuối cùng nhìn thấy anh chốt chặt cổng từ bên trong. Anh ấy mặc áo polo cổ lọ màu đỏ, quần jean xanh và khăn quàng cổ màu của đội bóng Man United.

Tôi nghĩ anh ấy rất cao hứng vào đêm đó. Chúng tôi bắt đầu ở Greens. Không thể nói chính xác là mấy giờ. Lúc đó đã hơn bảy giờ, có thể gần tám giờ. Bạn phải ra ngoài sớm vào tối Chủ Nhật. Bạn phải bắt đầu sớm, anh ấy thường nói thế, chửi thề các quán rượu. Mười giờ không phải là giờ đóng cửa, không hề. Không phải là anh ấy sẽ uống nhiều, anh ấy thích một vài cốc bia, thế thôi. Thèm uống không phải là lý do khiến anh ấy đến quán rượu.

Anh ấy đã uống bốn cốc bia đêm đó. Tôi chắc là anh ấy không uống nhiều hơn. Anh ấy chỉ ra ngoài để có bạn, giống như tôi vậy. Vui vẻ. Những chàng trai. Gặp gỡ mọi người, đó là những gì anh ấy muốn. Tôi không nghĩ mình từng thấy anh ấy ngồi lì ở một chỗ trong quán rượu.  Anh  thường đứng ở quầy, nói huyên thuyên. Anh  chặn mọi người đi ngang qua và tròng ghẹo họ, hoặc giả vờ, hoặc hỏi họ về điều gì đó. Họ đã nói về đồ uống, khiêu vũ, bóng đá và đàn bà. Anh  để mắt đến phụ nữ, giống như tôi. Có gì sai trái ở đây kia chứ? Một chàng trai trẻ. Anh ta sẽ hai mươi mốt tuổi vào mùa thu năm sau. Tôi không nghĩ anh ta sẽ đi lại lâu dài với bất kỳ ai vào thời điểm đó. Tôi đã biết tỏng tất cả. Pauline đã rời bỏ anh ta từ lâu rồi, đến rồi đi. Róisín thì bị anh ta bỏ. Cô ta chẳng ra gì, anh ta nói.

Không ai trong chúng tôi có phụ nữ đi cùng đêm đó.

Không có món ăn gì ở Greens. Chúng tôi đi đến  Doody's. Gần chín giờ rồi. Nhạc thì tuyệt, nhưng người thì chật cứng như cá mòi trong hộp. Chúng tôi ở đó cho đến khi đóng cửa. Quán này rất ngon. Chúng tôi dành phần lớn thời gian buổi tối với các chàng trai. Đã tìm hiểu nơi này vài lần, nhưng chẳng có gì. Có vài bóng hồng ở đó, nói chuyện nhiều và sôi nổi đàn đúm với nhau. Chúng tôi đã cố gắng hết sức tán tỉnh họ, nhưng vô ích. Họ có quá nhiều lý do từ chối. Không muốn nhảy. Họ có bạn trai riêng. Không hứng thú với chúng tôi. Họ có bạn bè của mình rồi. Hầu hết bọn họ nhìn chúng tôi một cách trơ tráo, mặt mày cau có. Tất cả những gì chúng tôi theo đuổi là tình dục, họ có vẻ như đã nói với chúng tôi như vậy. Chúng tôi không quan tâm.

Chúng tôi dừng lại ở sàn nhảy disko. Chúng tôi không rời khỏi góc vũ trường cho đến khi uống hết bay một gói sáu lon bia mà một trong những chàng trai đã mang vào dưới áo khoác của mình. Nơi này đông nghẹt.  Chúng tôi dành phần còn lại của đêm để thám thính  đánh hơi.

'Công việc ổn chứ, mọi chuyện thế nào?'

Chúng tôi chen vai thích cánh vào các nhóm. Các nhóm tròn đan vào nhau. Chúng tôi không phải lúc nào cũng được chào đón. Họ không cần chúng tôi. Quá bận thì thầm to nhỏ, hành động ngớ ngẩn, kể lại cho nhau những câu chuyện tiếu lâm.

Chúng tôi lang thang khắp nơi. Nói chuyện với rất nhiều người. Cũng được nhảy một vài điệu là lạ. Tôi nhớ anh ấy đã nhảy hết mình. Anh ấy luôn thích một chút chuyển động của đôi chân và đêm đó cũng không ngoại lệ. Như tôi đã nói, anh ấy không uống nhiều và rất tỉnh táo. Anh ấy nhảy  mọi thể loại nhạc và khá gây ấn tượng cho sàn nhảy. Ban nhạc Boomtown Rats có tác động lớn nhất đến anh ấy, nhất là bài 'Tôi không thích thứ Hai'. Anh ấy thích âm nhạc, các chuyển động và anh ấy chuyển động theo các giai điệu. Anh ấy hát theo lời một cách say mê, thuộc lòng tất cả.

 "Chúng ta đã không thu hoạch được gì tốt lắm"- tôi nói, hơi trêu anh - "Không có được một chiếc váy nào, thậm chí là viền váy cũng không"

Anh ta châm điếu thuốc, rít một hơi thật sâu. Một vòng khói thuốc thoát ra từ cái miệng tròn của anh ta.

'Ai nói thế? Cái gì khiến anh nghĩ rằng tôi đang theo đuổi một người phụ nữ?'

Điều đó khiến tôi khựng lại. Trong một khoảnh khắc, anh ấy như không có ở đó, nhưng sau đó lại hiện diện.

Tôi không quan tâm đến điều này.

 'Anh sẽ không nói thế ngay bây giờ nếu anh có một điếu thuốc trong tay, hoặc nếu anh đang tự mình chuẩn bị một điếu thuốc đầu tiên.'

Anh  giả vờ không phản ứng, nhưng tôi thấy những dấu hiệu của nụ cười trên môi anh. Anh  hít thêm một hơi nữa, rồi đột nhiên bật cười ha hả. Lúc đó đã hơn một giờ.

Chúng tôi dành thêm khoảng một giờ nữa quanh quẩn bên ngoài. Ai đó đi đến cửa hàng và quay lại với bánh mì kẹp thịt và khoai tây chiên. Chúng tôi  đùa giỡn, hút thuốc, nói huyên thuyên và tranh cãi nhau về phụ nữ. Khen ngợi, chỉ trích và đôi khi là phán xét.  Trận đấu bóng hôm Chủ Nhật đã được bàn tán nhiều. Đội bóng bị phê phán, trọng tài bị nguyền rủa. Chúng tôi nói về những chiếc xe máy phân khối lớn, Suzuki được khen ngợi và những kiểu xe khác. Những chiếc xe ô tô khủng mà chúng tôi muốn lái một ngày nào đó nếu trúng sổ số. Những chiếc Subaru và BMW mà những tay chơi ở Dublin thích. Chúng tôi đã kể một vài câu chuyện cười, cả chuyện tởm lợm.

Có người đã nhắc đến sòng bạc. Chúng tôi sẽ đi. Còn quá sớm để về nhà. Ai muốn về nhà sớm thế này? Chúng tôi có đi hay không? Có ích gì? Có ích gì khi về nhà? Chúng tôi phải đi đâu đó. Cuối cùng, một nhóm người trong số họ đã đến đó. Tất cả mọi người, ngoại trừ hai chúng tôi, tôi và anh ấy.

Chúng tôi đi thẳng về nhà. Tôi đã mời anh ấy vào nhà một lúc, khoảng gần ba giờ sáng. Tôi biết những người già sẽ ngủ và chúng tôi sẽ có nơi này cho riêng mình.

Chúng tôi vào nhà. Tôi cắm ấm đun nước và lấy gạt tàn thuốc lá ra, lấy cà phê và bánh quy xuống. Chúng tôi dành hai giờ để nói chuyện về điều này điều kia, để giải khuây.

Chúng tôi học cùng trường phổ thông nên lại nói chuyện về nơi đó. Chúng tôi tốt nghiệp cùng năm.  Thường ra không có việc làm gì cả. Yên tĩnh trong cả tuần và đi dạo vào cuối tuần. Ngủ cho đến sáng. Làm một số công việc lặt vặt ở đâu đó. Nghĩ một nửa đến việc đi sang Anh. Nhưng không bao giờ đi. Ở lại Galway. Thỉnh thoảng đi Dublin. Anh ấy thường nói, thực ra, rằng anh ấy muốn sống ở đó. Đó là một trong những kế hoạch của anh ấy. Chúng tôi nói về những cô gái mà chúng tôi đã kết bạn ... mẫu phụ nữ mà chúng tôi muốn ổn định cuộc sống một ngày nào đó ... những bộ phim mà chúng tôi thích ... những quốc gia mà chúng tôi muốn đến thăm ... loại công việc mà chúng tôi muốn làm. Công việc sẽ mang lại cho chúng tôi tiền bạc và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng tôi.

Bạn có thể tưởng tượng rằng anh ấy sẽ ở lại cho đến sáng nếu tôi có thể theo kịp anh ấy.  Không có dấu hiệu ngái ngủ nào trên mặt anh ấy. Khi nhìn và lắng nghe anh ấy, bạn sẽ nghĩ rằng anh ấy chỉ mới tỉnh ngủ. Cuối cùng, dù tôi có thích hay không, mắt tôi bắt đầu díu lại và tôi ngủ gục trên ghế sofa.

'Dậy đi!' anh ấy nói một cách thô lỗ, lắc mạnh tôi. Anh ấy dập tàn thuốc vào gạt tàn. 'Đến giờ tôi phải về nhà rồi.'

Tôi giật mình tỉnh giấc. Đã gần năm giờ sáng. Anh ấy quấn khăn quanh cổ. Tôi chỉ nghĩ đến giấc ngủ, kiệt sức. Nhưng thật lạ, khi tôi lại đi bộ cùng anh ấy, và ngôi nhà của gia đình anh ấy chỉ cách đó vài trăm thước. Có lẽ chỉ để hít thở không khí trong lành trước khi ngủ, để tỉnh táo hơn một chút? Dù sao thì tôi cũng đi ra ngoài cùng anh ấy.

Chúng tôi đi dọc con đường, trong buổi sáng mới rạng. Cuộc đi bộ đó, thời điểm đó của đêm, giờ đây tôi thường nhớ lại, như thể một linh hồn đang theo tôi, đúng hơn là một bóng ma. Trời lạnh. Không một tia sáng từ các ngôi nhà xung quanh.

Anh ấy không nói một lời nào trên suốt chặng đường. Từ đó, tôi thường nghĩ rằng mình sẽ vui nếu anh ấy nói ra điều gì đó - để tôi nhớ về chuyến đi đó. Chúng tôi đứng ở cổng chỉ một lúc. Tất cả những gì tôi muốn, và giờ tôi ghét phải nói ra điều đó - là vội vã về nhà cho khỏi lạnh.

Tiếng gõ cửa phòng ngủ đánh thức tôi. Mới bảy giờ. Mẹ tôi là người báo tin xấu, khiến tôi chết lặng, nằm bất động trên giường một lúc lâu. Ai mà ngờ được chứ? Thế giới này thật yếu đuối và mong manh như một chú chim sẻ nhỏ,  có thể thay đổi nó tức khắc chỉ bằng một cái hất tay.

Anh ấy đã kìm nén điều gì bấy lâu nay? Giờ đây, đột nhiên, tôi có hàng ngàn câu hỏi muốn hỏi anh ấy. Chẳng phải tôi cũng đang ở trong cùng một hoàn cảnh với anh ấy sao? Đó là điều tôi muốn nói. Tiếc là anh ấy đã không nói với tôi về kế hoạch này, nếu anh ấy đã lên kế hoạch từ trước; tôi là bạn thân nhất của anh ấy.  Anh đã chơi khăm tôi và anh  đã thắng. Theo một cách nào đó, thật dễ dàng để đổ lỗi cho anh ấy. Giờ tôi nhớ ra, tôi cảm thấy buồn nôn và thậm chí là tức giận. Tôi không biết phải làm gì cho phải phép.

Tôi đã không đến dự đám tang. Tôi không thể. Tôi chỉ thoáng nhìn anh ấy trong quan tài, vậy thôi. Bản thân tôi cũng muốn chết. Chết cũng đáng. Chúng tôi có thể lại được ở bên nhau, chỉ hai chúng tôi, và nếu không, liệu có còn điều gì tồi tệ hơn bây giờ không?

Vài ngày sau, tôi được đưa đến nghĩa trang. Họ nghĩ rằng điều đó có thể giúp tôi; rằng tôi phải đến sớm nếu không mọi chuyện sẽ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Tôi có thể sống cả đời mình mà không bao giờ đến đó.

Nó đã dạy tôi rất nhiều điều. Tôi nghĩ, lần đầu tiên tôi hiểu đúng mọi thứ. Cuộc sống đã kết thúc, mãi mãi. Những trận bóng đá đã kết thúc... những cuộc lang thang quanh các góc phố, tán tỉnh nháy mắt với các cô gái... tất cả những kế hoạch chúng tôi từng vạch ra.

 Tôi sẽ không bao giờ đến thăm mộ nữa, tôi nghĩ vậy. Như vậy an toàn hơn. Răng của mộ rất sắc; chúng đã xuyên qua tôi rồi. Không, không phải như vậy. Không phải như vậy, tôi muốn nhớ về anh ấy. Tôi muốn nhớ về anh ấy khi còn trẻ, vui vẻ, hai mươi tuổi, tràn đầy sức sống, tự do và thoải mái. Và hai chúng tôi đang lên kế hoạch cho điều gì đó mới mẻ.

Tôi đã đến thăm gia đình anh ấy vào tối hôm đó. Tôi nghĩ tốt nhất là nên kết thúc chuyện này. Họ chào đón và thân thiện. Chu đáo. Chúng tôi cùng nhau uống một tách cà phê. Cà phê và bánh quy. Chúng tôi rất ấm cúng với nhau. Đối với tôi, phần khó nhất là biết phải nói về điều gì. Tôi đã nói về anh ấy. Họ nói về tôi, về bản thân họ, về cuộc sống, thậm chí về thời tiết, về mọi thứ. Tôi quyết định không đến gần họ nữa trong một thời gian dài.

Bây giờ tôi không muốn nhắc đến chuyện đó trong cuộc trò chuyện nữa. Tôi tự nói với mình về chuyện đó rất nhiều.  Tự hỏi và tự hành hạ mình. Tôi vẫn chưa bắt đầu trả lời chính mình một cách đàng hoàng. Có lẽ đó là cách anh ấy thích? Có lẽ đó là lý do tại sao, có lẽ, anh ấy chưa bao giờ nói với tôi bất cứ điều gì. Tôi là người bạn tốt nhất mà anh ấy từng có, bạn thấy đấy. Anh ấy cũng tôn trọng tôi, tôi chắc chắn về điều đó.

Bạn có biết không, đôi khi khi tôi đi dạo ở trung tâm thành phố, tôi nửa mong đợi được nhìn thấy anh ấy. Anh ấy sẽ đi loanh quanh ở một góc phố nào đó, tay đút sâu vào túi quần, chăm chú nhìn thế giới xung quanh, huýt sáo giai điệu mới nhất trong bảng xếp hạng.

Và tôi đã ở bên anh ấy đêm đó. Thật vậy, theo một cách kỳ lạ nào đó, tôi thấy mình là người cuối cùng nhìn thấy anh ấy... đang khóa chặt cửa từ bên trong. Anh ấy mặc áo polo cổ lọ màu đỏ. Một chiếc áo polo cổ lọ màu đỏ, quần jean xanh cũ và một chiếc khăn quàng cổ màu của đàn ông.

Vũ Tuấn Hoàng giới thiệu và dịch từ bản tiếng Anh.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chùm thơ Elisa Mascia
Elisa Mascia sinh tại Santa Croce di Magliano - Ý. Bà là nhà thơ, nhà văn, Người dẫn chương trình phát thanh, người đọc thơ song ngữ bằng tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha, nhiếp ảnh gia, giảng viên và nhà phê bình, người đọc sách và người lồng tiếng. Là thành viên sáng lập và đã đăng ký tại WikiPoesia và Movimiento Poetas del Mundo. Chủ biên của tờ báo hàng ngày Alessandria today Magazine với hơn 2000 bài viết, blogger của nonsoloarteepoesiablog Magiche Emozioni dellanima, người thúc đẩy nghệ thuật, văn hóa thơ ca và văn học trên thế giới. Học giả - Quản trị viên - Giám đốc Truyền thông và Sự kiện - Điều phối viên của Ý tại Học viện Albap. Điều phối viên của Liên hoan Văn học Quốc tế Panorama (PILF) 2022-2023-2024, Điều phối viên của Liên hoan Nghệ thuật 2022-2023-2024, và là thành viên của Quỹ Văn chương Quốc tế (Writers Capital Foundation International). Người chịu trách nhiệm và là người lãnh đạo của International Biennial Agiography Iconography thuộc Writers Capital Foundation, Điều phối viên và Ban giám khảo của Giải thưởng Sách vàng Panorama của Ý năm 2024. Kể từ tháng 5 năm 2024, bà là thành viên chính thức của Ciesart do chủ tịch Tiến sĩ Lily Baylon Escritora bầu chọn, với sự ghi nhận về số lượng và sự công nhận của Đại sứ Văn hóa.
Xem thêm
Mối tình cuối cùng của Anton Chekhov
Những ngón tay gầy gò của cô có mùi phấn trang điểm và mùi cam thơm thơm. “Em là trang cuối cùng của anh,” Chekhov nói với cô. Và cô ấy khóc mỗi lần anh trở về Yalta. Chekhov cấm vợ rời bỏ sân khấu. Ông tin rằng tài năng của Olga lớn đến mức không thể bị chôn vùi. Hai người họ đã được định mệnh an bài sẽ có rất nhiều hạnh phúc nhưng lại chỉ còn ít năm tháng chung sống...
Xem thêm
Giới thiệu thơ Umid Najjari
Umid Najjari sinh ngày 15 tháng 4 năm 1989 tại Tabriz (Iran). Sau khi tốt nghiệp Đại học Hồi giáo Azad của Tabriz năm 2016, anh vào Đại học Baku Aurasia để tiếp tục học chuyên ngành Ngữ văn tại Cộng hòa Azerbaijan. Anh đã xuất bản “The land of the birds” (Tạm dịch: Vùng đất của những chú chim) và “Beyond the walls” (Tạm dịch: Bên kia những bức tường) bên cạnh một số bản dịch. Thơ của anh đã được xuất bản tại Hoa Kỳ, Canada, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan, Iraq, Kazakhstan, Georgia, Chile và trên các trang truyền thông Iran. Anh đã được trao bằng khen quốc tế đại hội LIFFT năm 2019. Anh giành Giải thưởng “IWA Bogdani” năm 2021, Giải thưởng “Mihai Eminescu” năm 2022. Anh cũng được trao Giải thưởng quốc tế Huy chương Alexandre Đại đế năm 2022. Najjari cũng đã được bầu làm Phó chủ tịch của hiệp hội các nhà văn quốc tế BOGDANI, có trụ sở tại Brussels và Pristina. Anh hiện là thành viên tích cực của Hiệp hội cây bút trẻ thế giới Turkic.
Xem thêm
Thơ Valentina Novkovich (Cộng hòa Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovich, đồng thời là nhà văn, dịch giả văn học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga (ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan, Romania, Macedonia, Kazakhstan.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm

Quảng cáo

quảng cáo