TIN TỨC

Tiếng nói không lời - Tiểu luận của Jon Fosse

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-04 22:22:02
mail facebook google pos stwis
9 lượt xem

Nhà văn Na Uy Jon Fosse bắt đầu sự nghiệp với văn xuôi, thơ ca, rồi sau là kịch. Trong dự án công diễn vở kịch Cái tên (de Namnet) ở Nhà hát Quốc gia Bergen, ông viết lời giới thiệu Tiếng nói không lời. Tiểu luận xoay quanh thứ ngôn ngữ lặng yên nằm giữa những dòng chữ, thứ ngôn ngữ không cất lời nhưng luôn mong mỏi được lắng nghe; cùng với đó là những suy tư về khả năng của sân khấu trong việc gìn giữ và mang đến tiếng nói như vậy. Vấn đề này sẽ còn liên tục trở lại trong những bài phỏng vấn, trao đổi hay cả trong diễn văn nhận giải Nobel Văn học năm 2023 của Fosse sau này.

Nhà văn Jon Fosse.

Viết là một dạng năng lực ta mang, nó ở bên ta, song hành cùng ta, tựa như một con người xuất hiện và tiến bước.

Marguerite Duras, Viết, Éditions Gallimard, Paris 1993

Trong những điều nghệ thuật nói đến, có một thứ khác, không phải nội dung, sẽ quyết định chất lượng một tác phẩm. Thứ “khác” ấy chúng ta thường gọi dưới cái tên hình thức. Hình thức thì quan trọng. Thế nhưng cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng hình thức cũng chẳng quan trọng hơn nội dung.

Có lẽ trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực, hình thức và nội dung hòa quyện khăng khít với nhau đến mức không thể tách rời: nội dung là hình thức, hình thức là nội dung.

Hơn cả nội dung, và hơn cả hình thức, có một yếu tố khác sẽ quyết định chất lượng một tác phẩm. Cái “khác” ấy là gì?

Có lẽ đó là tiếng nói ta hằng nghe rõ trong mọi tác phẩm nghệ thuật chân chính.

Tôi sớm nhận ra rằng trong văn chương, tiếng nói ấy ở đó nhưng nghịch lí thay, nó cũng không nói gì về chính mình. Điều lạ lùng là, trong một tác phẩm hay, cất lên một tiếng nói không lời, một tiếng nói chẳng có gì đặc biệt, một tiếng nói chỉ đơn thuần là ở đó, tựa như điều ta có thể lắng nghe, như tiếng nói vô thanh cất lên từ xa xôi.

Và thế rồi tôi chợt nhận ra, đó là tiếng nói hoàn toàn nằm nơi chữ nghĩa. Và đó là lí do vì sao tôi gọi nó là tiếng nói của ngôn từ. Trong những tác phẩm hay, lúc nào ta cũng nghe được tiếng nói ngôn từ. Tiếng nói ấy không thể bị giản lược thành nội dung hay hình thức mà nằm ở tất thảy những gì mà hình thức và nội dung cấu trúc nên, đó cũng chính là bản thân văn chương.

Thế nên với tôi, nghệ thuật gắn bó với tiếng nói gần như phi nhân này, trong tiếng nói khiêm nhường của mình.

Và nghịch lí lẫn lạ lùng thay, tiếng nói ấy ở đó, nó chẳng nói gì cả. Đó là tiếng nói câm lặng. Một tiếng nói cất lên trong thinh lặng. Tiếng nói đến từ lặng câm và đôi khi được nghe thấy qua những gì người khác nói, chẳng hạn qua người kể chuyện và các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết, hay các nhân vật trong một vở kịch.

Tôi có thiên hướng tin rằng chính trong trước tác kịch, thứ tiếng nói không cất lời nhưng lại hiện diện ấy lần đầu tiên xuất hiện. Bởi sử thi và những khúc hát rong có giọng nói cá biệt rõ ràng đến nỗi tiếng nói khác, thứ tiếng nói không cất lời ấy khó lòng được lắng nghe. Nhưng trong văn học viết, nếu đó là một tác phẩm hay, thì tiếng nói câm lặng này lại hiện diện; tất nhiên, trong một vở kịch hay cũng như vậy.

Có lần, khi tôi thử tìm một khái niệm để hiểu về tiểu thuyết, thì đó là tiếng nói này, thứ tiếng tôi gọi là tiếng nói của ngôn từ, mà đối với tôi, đó là khái niệm quan trọng nhất để hiểu về tiểu thuyết. Nhưng tôi không thể nói được gì thêm. Chính bởi cảm giác rằng không thể nắm giữ được, tiếng nói ấy không sinh ra cho mình nắm bắt, ngược lại, nó xuất hiện như khái niệm không thể nắm bắt.

Tôi từng nhận ra rằng tiếng nói ấy hiện diện trong văn chương mà mình yêu thích, đó cũng lại là một nghịch lí khi tiếng nói ấy được nghe thấy thật rõ ràng trong loại văn chương có vẻ ít tính khẩu ngữ và đậm tính bác học, chẳng hạn trong những cuốn tiểu thuyết “phức điệu”, nhưng tôi không thể nói thêm điều gì (sau này, nhà thơ cũng là triết gia người Pháp Maurice Blanchot giúp tôi hiểu được tiếng nói ấy thuộc kiểu gì – tôi sẽ không đi vào tiểu tiết nhưng những gì tôi nói ra chắc chắn đều được khơi nguồn từ suy nghĩ của ông).

Thế còn sân khấu?

Tôi có xu hướng nghĩ rằng ta có thể hiểu theo cách tương tự. Và tôi thật sự đã nghĩ rằng chính nơi sân khấu, giọng của tiếng nói câm lặng ấy được lắng nghe trước nhất.

Nỗi chán ghét sân khấu trong tôi một phần bắt nguồn từ thực tế sân khấu chỉ mang đến văn hóa chứ không mang tính nghệ thuật. Sân khấu chỉ gợi ra không gian mà trong mắt tôi, chỉ là sự phô bày văn hóa khó chịu. Tôi chẳng thể nghe được tiếng nói nào như thứ tiếng mà tôi nhắc đến.

Hoặc gần như chẳng bao giờ ta nghe được tiếng nói như thế ở đó. Thế nhưng rồi tôi tình cờ nhận ra thứ tiếng nói mình lắng nghe được trong văn chương cũng ở đó, trên sân khấu, và tôi sẽ không giấu giếm rằng tiếng nói ấy ở trong những màn cảnh mà Samuel Beckett và Lars Norén viết ra.

Nhưng thường nhất thì, khi đến rạp hát, tôi chỉ tìm thấy sự thống nhất văn hóa, những lời bán tán xôn xao về các chủ đề rành rành xuất hiện trên báo chí và truyền hình, hoặc những sáng tạo hình thức của chủ nghĩa hiện đại phù phiếm. Chẳng nghi ngờ gì nữa, một cái thì hướng đến công chúng có tuổi và lịch lãm, thứ kia thì hướng đến công chúng trẻ tuổi thâm trầm. Cái đầu xuất hiện ở thứ ta gọi là các “tổ chức”, cái thứ hai thì ở những nơi gây kì thú trên khắp các thành phố.

Với tôi, đến rạp hát dần dần đồng nghĩa với ra khỏi rạp – ngay từ mở màn. Tôi phải trốn thục mạng khỏi sự đồng thuận văn hóa dính dớp ấy, thứ đồng thuận đe dọa tước đoạt đi mọi dũng khí sống của mình.

Và thế nhưng, tôi lại từng trải nghiệm một sâu khấu đã vượt qua được khoảng cách chia cắt văn hóa và nghệ thuật – rồi khi sân khấu hợp nhất với nghệ thuật, thì nó đích thực là nghệ thuật. Trải nghiệm ấy, tôi đã trải qua. Khi trải nghiệm ấy sinh ra, tôi đã gặp thứ khác, một tiếng nói lặng yên, tiếng nói đơn độc tôi chưa từng bắt gặp. Tôi thật sự ấn tượng với tiếng nói câm lặng ấy, và kể từ khi gặp gỡ tiếng nói ấy, cuộc sống đã không còn như trước nữa.

[...]

Từ khi sân khấu kịch – ít nhất là sân khấu mà tôi hình dung – từ bỏ văn hóa, thứ văn hóa nó luôn vật lộn chiếm lĩnh, và trở thành nghệ thuật, thì điều nổi bật lên không phải là nội dung mới mẻ, cũng không phải hình thức, không phải việc ta bắt gặp thứ hình thức chưa thấy bao giờ (bởi xét phương diện nào đó, nội dung lúc nào cũng mới, bất chấp thể loại và mức độ hay dở, và cũng theo cách nào đó, hình thức lúc nào cũng mới, từ màn diễn này đến màn diễn khác, từ tối này sang tối khác), ngược lại, thứ cho thấy sân khấu kịch vượt khỏi văn hóa và trở thành nghệ thuật, đơn giản là việc ta nghe thấy tiếng nói chưa từng nghe được trước đây.

Tiếng nói ấy tôi gọi là tiếng nói của ngôn từ. Chỉ khi sân khấu kịch thành một loại “lối viết sân khấu”, tiếng nói ấy mới được lắng nghe, trong khi tiếng nói ấy nói mà không nói, thông qua các tình huống mà những thay đổi trên sân khấu tạo ra nhờ những chuyển động ngôn ngữ và cử chỉ tinh vi, nhờ các mô típ và hình ảnh được cách điệu hóa.

Thế là ta nghe được tiếng nói không lời, chất chứa ý nghĩa tiềm ẩn.

Và đó là tiếng nói cất lời mà không lên tiếng, nhưng tiếng nói ấy gần như không phải tiếng nói của con người, không phải tiếng nói của tác giả cũng không phải của đạo diễn sân khấu, mà là tiếng nói đến từ xa xăm.

27 tháng Năm năm 1995

Nguyễn Thị Hoài Phương dịch từ bản tiếng Pháp của Terje Sinding

(Jon Fosse: Voix sans paroleshttps://surlering.org/2024/03/07/jon-fosse-voix-sans-paroles/)

Nguồn: Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Han Kang: Viết là một cách để đặt câu hỏi
Giải Nobel Văn chương năm 2024 đã khẳng định vị thế của Han Kang như một trong những tiếng nói nổi bật nhất của văn chương Đông Á hiện nay. Tại Việt Nam, các tác phẩm của Han Kang đang ngày càng thu hút sự quan tâm và được đón nhận sâu rộng từ giới chuyên môn lẫn bạn đọc.
Xem thêm
Quang phổ con người
Tôi quen biết Micheal lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm sách lớn nhất hành tinh – Frankfurt messe năm 2023. Tôi dừng chân trước gian hàng sách của đất nước Ireland chỉ vì trong tuyển tập dịch thơ ca thế giới Thơ Không Tuổi của tôi có năm bài thơ của một thi sĩ lừng danh, người đoạt giải Nobel năm 1923, người con của đất nước này là William Butler Yeats.
Xem thêm
Chùm thơ Elisa Mascia
Elisa Mascia sinh tại Santa Croce di Magliano - Ý. Bà là nhà thơ, nhà văn, Người dẫn chương trình phát thanh, người đọc thơ song ngữ bằng tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha, nhiếp ảnh gia, giảng viên và nhà phê bình, người đọc sách và người lồng tiếng. Là thành viên sáng lập và đã đăng ký tại WikiPoesia và Movimiento Poetas del Mundo. Chủ biên của tờ báo hàng ngày Alessandria today Magazine với hơn 2000 bài viết, blogger của nonsoloarteepoesiablog Magiche Emozioni dellanima, người thúc đẩy nghệ thuật, văn hóa thơ ca và văn học trên thế giới. Học giả - Quản trị viên - Giám đốc Truyền thông và Sự kiện - Điều phối viên của Ý tại Học viện Albap. Điều phối viên của Liên hoan Văn học Quốc tế Panorama (PILF) 2022-2023-2024, Điều phối viên của Liên hoan Nghệ thuật 2022-2023-2024, và là thành viên của Quỹ Văn chương Quốc tế (Writers Capital Foundation International). Người chịu trách nhiệm và là người lãnh đạo của International Biennial Agiography Iconography thuộc Writers Capital Foundation, Điều phối viên và Ban giám khảo của Giải thưởng Sách vàng Panorama của Ý năm 2024. Kể từ tháng 5 năm 2024, bà là thành viên chính thức của Ciesart do chủ tịch Tiến sĩ Lily Baylon Escritora bầu chọn, với sự ghi nhận về số lượng và sự công nhận của Đại sứ Văn hóa.
Xem thêm
Mối tình cuối cùng của Anton Chekhov
Những ngón tay gầy gò của cô có mùi phấn trang điểm và mùi cam thơm thơm. “Em là trang cuối cùng của anh,” Chekhov nói với cô. Và cô ấy khóc mỗi lần anh trở về Yalta. Chekhov cấm vợ rời bỏ sân khấu. Ông tin rằng tài năng của Olga lớn đến mức không thể bị chôn vùi. Hai người họ đã được định mệnh an bài sẽ có rất nhiều hạnh phúc nhưng lại chỉ còn ít năm tháng chung sống...
Xem thêm
Giới thiệu thơ Umid Najjari
Umid Najjari sinh ngày 15 tháng 4 năm 1989 tại Tabriz (Iran). Sau khi tốt nghiệp Đại học Hồi giáo Azad của Tabriz năm 2016, anh vào Đại học Baku Aurasia để tiếp tục học chuyên ngành Ngữ văn tại Cộng hòa Azerbaijan. Anh đã xuất bản “The land of the birds” (Tạm dịch: Vùng đất của những chú chim) và “Beyond the walls” (Tạm dịch: Bên kia những bức tường) bên cạnh một số bản dịch. Thơ của anh đã được xuất bản tại Hoa Kỳ, Canada, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan, Iraq, Kazakhstan, Georgia, Chile và trên các trang truyền thông Iran. Anh đã được trao bằng khen quốc tế đại hội LIFFT năm 2019. Anh giành Giải thưởng “IWA Bogdani” năm 2021, Giải thưởng “Mihai Eminescu” năm 2022. Anh cũng được trao Giải thưởng quốc tế Huy chương Alexandre Đại đế năm 2022. Najjari cũng đã được bầu làm Phó chủ tịch của hiệp hội các nhà văn quốc tế BOGDANI, có trụ sở tại Brussels và Pristina. Anh hiện là thành viên tích cực của Hiệp hội cây bút trẻ thế giới Turkic.
Xem thêm
Thơ Valentina Novkovich (Cộng hòa Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovich, đồng thời là nhà văn, dịch giả văn học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga (ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan, Romania, Macedonia, Kazakhstan.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm