- Thơ
- Thơ Nguyễn Xuân Sang – những miền đất gọi nhớ
Thơ Nguyễn Xuân Sang – những miền đất gọi nhớ
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sang, nguyên giáo viên dạy môn Văn học đi bộ đội, tốt nghiệp đại học Báo chí; Học Trường Điện ảnh Việt nam, bộ môn quay Camera và Nhiếp ảnh; Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam; Trưởng Ban văn học, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ);
Đã xuất bản các tác phẩm: “Thương nhớ một người”, thơ, Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Quảng Trị, năm 1991; “Thu tương tư” thơ, Nxb Thanh Niên, năm 1999; “Thương về quê mẹ” thơ, Nxb Văn học, năm 2006; “Biển & Em” thơ, Nxb Hội Nhà văn, năm 2011; “Những gương mặt Hải quan”, phóng sự, ghi chép, Nxb Thanh Niên, năm 2014; “Mùa thu trái chín”, thơ, Nxb Hội Nhà văn, năm 2019; “Đêm khuya trái rụng” thơ, Nxb Hội Nhà văn, năm 2024; Sắp xuất bản “Những gương mặt thơ”, Nghiên cứu - Phê bình.
Trong 2 năm 1994 và 1995 Tạp chí Hải quan phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức “Cuộc thi thơ về đề tài Hải quan nhân 50 năm thành lập Hải quan Việt Nam”, Nguyễn Xuân Sang được trao tặng Giải A, với chùm thơ 3 bài: “Lính Hải quan đường bộ mà em - Ở giữa hai mùa - Chiều thu Lao Bảo”.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sang đi nhiều nơi, gặp nhiều người với đặc thù công việc nhiều năm công tác trong ngành Hải Quan, do đó thơ anh đầy ắp chất liệu cuộc sống, nhiều hình ảnh địa danh gắn liền với cảm xúc trực quan, tạo nên lối viết “tình cảm mộc mạc, hồn hậu, chân tình nhưng cũng có lúc rất tinh tế và khiêm tốn. Nhờ vậy thơ anh dễ đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ…” (nhận xét của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)
Mời bạn đọc chùm thơ Nguyễn Xuân Sang do nhà thơ Vũ Thanh Hoa giới thiệu:
ĐÊM KHUYA TRÁI RỤNG
Chạm vào khoảng lặng của đêm
Vài ba trái chín rụng êm cuối vườn
Thao thức dăm bảy giọt sương
Non tơ ngọn gió vương vương khóm đào
Ngang trời rơi một đường sao
Loáng qua cửa sổ trốn vào hư thinh
Căn phòng hụt hẫng rộng rinh
Không em đối diện một mình với khuya
Ngỡ như em vẫn ngồi kia
Đang hờn dỗi mái tóc thề nghiêng đêm
Rồi em bước vội ra thềm
Ánh trăng khép lại bức rèm nhớ thương
Đêm khuya trái rụng sau vườn
Lặng thầm dâng hết chút hương gối mùa…
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sang
HUYỀN ẢO KHE SANH
Bánh xe vừa chạm Khe Sanh
Gặp sương mù bao phủ
Như là khói bồng bềnh hơi thở
Như là mây vần vũ lưng trời
Thị trấn Khe Sanh chìm trong sương trôi
Đèn pha dọi chỉ xuyên hai bước
Cây đứng bên đường nhìn không rõ được
Bánh xe lăn mò mẫm mặt đường
Tiếng em gái cười mắc kẹt giữa màn sương
Còi ô tô âm âm tắc nghẹn
Đèn gầm bật lên bánh lăn rón rén
Chiếc gạt nước gạt sương phủ trước vầng trán cuộc đời
Để cho tay lái vững vàng với độ dốc đang trôi …
Bạn tôi ngã xuống một đêm bom đạn mù trời
Tại nơi này năm ấy
Nấm mồ anh nằm bên đường nhìn không thấy
Thế giới sương như hội tụ về đây
Sương như mây
Sương như khói
Như lạc vào thực hư cõi Phật
Huyền ảo Khe Sanh
LAO BẢO NGÀY TRỞ LẠI
Lao Bảo ơi, hôm nay tôi trở lại
Thăm mảnh đất xưa cảm xúc dâng trào
Nắng lao xao rải dọc miền biên ải
Hai nước Việt - Lào chung ngắm ánh trăng sao
Bên bạn nóng, bên Việt mình cũng nóng
Bởi mùa khô bạn san bớt gió Lào
Bom Mỹ ném điên cuồng bên Tà Khống
Bom dội về Lao Bảo, Làng Vây
Ôi, thương lắm mảnh đất ở phía Tây
Một thời hùm beo rừng thiêng nước độc
Nơi giam cầm những tù nhân gan góc
Yêu nước thương nòi chống Pháp xâm lăng
Sau giải phóng bà con dưới đồng bằng
Lên khai hoang lập làng kinh tế mới
Sốt rét hoành hành, triền miên bụng đói
Phát rẫy đốt nương gieo hạt lúa nhọc nhằn
Mới đó thôi mà đã mấy mươi năm
Lao Bảo hôm nay hoàn toàn thay đổi
Thị trấn khởi sắc khoác màu áo mới
Nhà cao tầng, đường trải nhựa thênh thang\
Cửa khẩu Lao Bảo đẹp đẽ, khang trang
Xe xuất, xe nhập tấp nập tăng chuyến
Du khách đến tham quan lưu luyến
Nở nụ cười, chụp pô ảnh nơi đây…
Thị trấn Lao Bảo, tháng 4 năm 2024
VỀ THĂM TÂN SỞ
Tôi về lật tháng năm xưa
Tìm trong quá khứ nắng mưa một thời
Căn cứ Tân Sở đâu rồi?
Tường thành vùi lấp lở bồi bể dâu
Trăm năm nước chảy chân cầu
Vua Hàm Nghi hóa chim câu bay rồi
Chiếu Cần Vương tựa mặt trời
Sáng soi dân Việt triệu người đứng lên
Chỉ là giáo mác, cung tên
Làm cho giặc Pháp đảo điên, kinh hoàng
Vì Tổ quốc không đầu hàng
Vua xem nhẹ chiếc ngai vàng truyền ngôi
Yêu nước không kể vua, tôi
Cùng nhau đánh Pháp hơn mười năm trôi
Chiều Tân Sở nắng vàng rơi
Mơ màng tôi thấy bóng Người về thăm…
Cam Lộ, tháng 6/2024
NHỚ NGÃ TƯ SÒNG
Đôi khi nhớ Ngã Tư Sòng (*)
Nhớ cô em gái má hồng năm nao
Vườn nhà bốn phía tường cao
Bởi cha không muốn gió Lào ngó nghiêng
Trắng trong một trái tim thiêng
Muốn trao anh, sợ tháng giêng lỡ lời
Sợ cha biết chuyện hai người
Vì mẹ nhận lễ trầu vôi xóm giềng
Ngày ấy, có điện thoại riêng
Ngỏ cùng em lời thiêng liêng, nồng nàn
Về phép cạn kiệt thời gian
Xốc ba lô…buồn miên man trong lòng
Đôi khi nhớ Ngã Tư Sòng
Nhớ cô em gái má hồng năm nao
Nếu vườn không có tường cao
Chắc anh sẽ nhảy ào vào với em…
Đông Hà, cuối tháng 2.2023
(*) Ngã Tư Sòng nằm ở phía Bắc cầu Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
TÂY NINH MONG NHỚ
Tây Ninh ngày tôi đến
Nắng vàng màu mật ong
Về thăm khu kháng chiến
Chàng Riệc rừng mênh mông
Tượng Bà Đen trầm mặc
Giữa núi rừng bao la
Khách hành hương nhắm mắt
Lâm râm khấn vía bà
Tòa Thánh uy nghiêm quá
Đất thiêng Đạo Cao Đài
Nơi chốn thật yên ả
Cứ ngỡ cõi thiên thai
Ba cửa khẩu quốc tế (*)
Hai nước trao đổi hàng
Cột mốc hiền lặng lẽ
Thông thương thật dễ dàng
Nhớ ngày quân Pôn Pốt
Tràn qua bắn giết càn
Bộ đội ta lập chốt
Đánh đuổi lũ bạo tàn
Tây Ninh nay đổi mới
Thành thị đến nông thôn
Lòng người vui hồ hỡi
Mong hòa bình trường tồn
Thôi, chào Tây Ninh nhé
Biết là rất nhớ mong
Mang về ba lô nắng
Màu vàng như mật ong…
Tây Ninh: 12/6/2024
(*) 3 Cửa khẩu quốc tế: Mộc Bài, Xa Mát, Tân Nam
CHIỀU LONG HẢI
Anh trở về biển Long Hải chiều nay
Tìm dấu chân em dung dăng ngày ấy
Biển vẫn vậy, dấu chân em không thấy
Chắc sóng thời gian xóa hết mất rồi
Anh đi nhặt kỷ niệm thuở xa xôi
Ngỡ như em đang bơi dọc bờ biển
Em hiển hiện rồi em chợt biến
Mắt anh hoa, không biết thực hay mơ?
Em xa anh từ bấy đến giờ
Biển Long Hải nơi in hình hai đứa
Ôi! Tuổi trẻ đã lùi về quá khứ
Mối tình đầu luôn xao xuyến hồn anh.
Biển Long Hải: Tháng 4 năm 2024
HẠT MUỐI
Sinh ra từ nước mặn mòi
Phơi mình dưới nắng mặt trời chói chang
Đồng muối nóng tựa chảo rang
Nước bốc hơi mạnh, muối càng trắng phau
Nhu cầu cần muối giống nhau
Quan chức cho đến nghèo giàu gần xa
Muối nồng ấm vị đậm đà
Chất keo kết dính đàn bà đàn ông
Nhờ muối da em trắng hồng
Đôi mắt lúng liếng, trong lòng reo ca
Nhớ hồi kháng chiến đã xa
Bộ đội thiếu muối vàng da, gầy gò
Đốt cỏ tranh nhấm tàn tro
Tìm chút vị mặn để cho đỡ thèm
Chẳng mơ thịt cá chả nem
Mơ có hạt muối để nêm canh rừng
Soi trong hạt muối rưng rưng
In dáng vất vả của từng diêm dân…
TIẾNG DẾ TRÊN GIÀN KHOAN
Giàn khoan cắm giữa biển Đông
Sóng dữ chồm qua chân đế
Ô hay, reo vui tiếng dế
Bâng khuâng, xao xuyên giàn khoan
Khuôn mặt thợ trẻ hân hoan
Tan ca nằm nghe dế gáy
Tiếng dế hòa cùng tiếng máy
Nhẹ vơi nỗi nhớ đất liền
Hình ảnh ngày nào hiện lên
Chân trần lội đồng bắt dế
Đựng vào bao diêm nhỏ bé
Dấu trong cặp sách đến trường
Thương sao cánh đồng quê hương
Quanh năm thiên tai tàn phá
Tiếng dế tâm tình êm ả
Vỗ về kỷ niệm tuổi hoa
Tiếng dế sớm chiều ngân nga
Giàn khoan bớt phần quạnh quẽ
Tiếng dế hay hồn đất mẹ
Theo con ra với giàn khoan …
CHIỀU BIỂN CỬA TÙNG
Giận dỗi ai biển gầm thét ầm ào
Nên cứ thả hàng trăm con sóng dữ
Sóng quất vào bờ tìm chi quá khứ
Đến mệt đờ nên sóng thở dốc thôi
Gió đi đâu tất tưởi vô hồi
Vấp vào cây dương vút lên tiếng hát
Đôi chiếc thuyền câu ngủ say trên bãi cát
Cô đá trần truồng thích tắm mát quanh năm
Biển Cửa Tùng một chiều anh đến thăm
Chỉ biển với anh âm thầm trò chuyện
Con còng gió thấy anh vụt biến
Nó cô đơn, anh cũng chỉ một mình
Em ở đâu sao quá vô tình?
Không ra biển với anh cho chiều quê bớt tủi
Anh ra về khi ánh ngày tàn lụi
Anh với nỗi buồn cùng bước song đôi…
NGUYỄN XUÂN SANG