TIN TỨC

Cảm xúc tháng Tư

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-04-14 08:49:04
mail facebook google pos stwis
1362 lượt xem

TRẦN NGỌC PHƯỢNG

Tôi vào Nam năm 1965, chiến đấu ở chiến trường Long Khánh, Bà Rịa, Biên Hòa, có lần thọc sâu xuống tân Bến Cát, Củ Chi. Hàng đêm ra bìa trảng nhìn về Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn, bồi hồi với câu thơ của Lê Anh Xuân: “Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó / Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về/ Bao giờ bao gìờ Sài Gòn giải phóng? Ôi những phố hè, ôi những hàng me?”.

Cái khoảng cách chim bay mấy chục cây số đó tưởng đã tới được trong Mậu Thân 68. Tôi đi theo đơn vị tiền phương đã xuống tận Thủ Đức. Sau mấy ngày áp sát Sài Gòn, các đơn vị chủ lực của ta bị địch đánh bật ra. Thương vong nhiều vô kể. Sau Mậu Thân, địch tăng cường càn quét. Các cơ sở hậu cần bị bể. Các cửa khẩu bị phong tỏa. Đói ăn nhiều đơn vị phải lên tân biên giới. Đêm đến các đơn vị hậu cần chúng tôi phải đột ấp móc nối cơ sở. Mỗi ký gạo/ cân muối có khi phải đổi sinh mạng. Rồi phải 7 năm sau, trải qua những ngày tháng ác liệt của chiến dịch Nguyễn Huệ 72, những ngày tranh chấp giành đất sau hiệp định Paris, những ngày mưa bom B52 trên cả 2 miền Nam - Bắc, chúng ta mới tiến tới đợt Tổng tiên công, nổi dậy mùa xuân 75 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Khi phụ trách tổ đài vô tuyến điện theo Ban Chỉ huy Đoàn Hậu cần 814, tôi đã cảm nhận được khí thế khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch. Hàng đêm các xe chở vũ khí tập kết ở Sông Bé và sông Đồng Nai. Trận đánh mở màn ở Xuân Lộc diễn ra rất ác liệt. Địch chống trả quyết liệt và dùng đến cả bom CBU để hủy diệt đối phương. Quân đoàn 4 đứng chân trên mảnh đất miền Đông, sau khi phá tan cánh cửa Xuân Lộc phải đánh bọn địch ngoan cố co cụm cố thủ ở Trảng Bom, sân bay Biên Hòa, cầu Rạch Chiếc. Bao anh em đồng đội đã hy sinh trên đường vào Sài Gòn, xác để lại trên các cánh rừng cao su, dưới các chân cầu Đồng Nai, Rạch Chiếc… Đoàn tôi được lệnh tiếp quản một phần Tổng kho Long Bình, kho vũ khí hậu cần vào loại lớn nhất miền Nam có 14, 15 cổng ra vào, rông 24 cây số vuông. Cơ man nào là xe cộ, vũ khí quấn áo vất bừa bãi trên đường. Mấy hôm sau anh Sao rủ mình đi Sài Gòn. Mình hỏi "Đi bằng gì? " Anh nói xe jip. Mình phân vân: "Ông có biết lái không?" Anh ta trả lời: "Dễ mà, ở quê, mình lái máy cày quen rồi”.


Cảnh Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Thế là đi Sài Gòn. Anh bạn mình lái xe chẳng biết đường sá luật lệ gì cả. May mà dân thương thấy xe bộ đội có cắm lá cờ đỏ nên tận tình chỉ đường.

Mình là dân thành phố mà vào Sài Gòn lần đầu cũng thấy choáng ngợp. Từ phía cầu Văn Thánh đã nhìn thấy ngôi nhà cao 11 tầng ở đương Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) trên bức tường vẽ ông da đen nhe hàm răng trắng phếu, quảng cáo cho hãng kem Hynos. Đường sá nhà cửa khang trang. Ở trung tâm thành phố, xe cộ tấp nập nhiều nhất là các loại xe Honda, xe lam. Các cô nữ sinh mặc áo dài đeo băng đỏ giữ trật tự đường phố. Người dân hồ hởi ra đường, gặp anh bộ đội nào cũng hỏi thăm quê quán để tìm người quen. Chúng tôi vòng xe qua đường Nguyễn Huệ ngắm nhìn khách san Palace và tòa nhà Ngân hàng Kỹ thương cao 16 tầng, qua chợ Bến Thành thấy hàng hóa phong phú, mua bán thoải mái nhưng chẳng đứa nào trong túi có tiền cả. Khi dừng chân trước công viên Dinh Độc Lập, mấy cô gái mắt xanh môi đỏ la cà đến gần hỏi các anh có đi chơi không? Một cụ già đi qua nhắc khéo: "Các cháu cẩn thận đấy, nếu không biết đường thì già chỉ cho”.

Buổi trưa đưa Phong đến nhà dì ruột theo cái địa chỉ ghi trên mảnh giấy. Nhà ở Quận 3, trên đưường Công Lý. Phải để xe ngoài đường, vào hẻm qua 3,4 cái 'xuyệt' mới tới. Gọi là nhà nhưng thực ra đây chỉ là túp lều lụp xụp với mấy tấm gỗ ván lấn chiếm dòng kênh. Bà ngoại ôm lấy Phong, sờ từ đầu đến đến chân rồi khóc. Dì Phong đang bán hàng rong trong hẻm cũng bỏ chạy về mang theo mấy chai nước ngọt. Dì chỉ vào cậu thanh niên mặt non choẹt đang ngồi khép nép góc nhà. "Em mày đấy, nó bị bắt đi lính năm ngoái, đẩy ra vùng 1 chiến thuật, may mà đào ngũ sống sót trở về".

Bà con hàng xóm kéo sang rất đông, Căn nhà ọp ẹp bên dòng nước hôi đen, Mọi người ngồi chật cứng, chỉ sợ sụp đổ bất cứ lúc nào. Tôi không ngờ giữa Sài Gòn hoa lệ, giữa trung tâm Q1, Q3 lại còn bạt ngàn những khu nhà ổ chuột như vậy. Chúng tôi lấy thùng lương khô 702, có viên tăng lực biếu gia đình và chia cho cho các cháu. Bọn trẻ thích lắm, ríu ra ríu rít với các chú bộ đội.

Ngày đầu tiên vào Sài Gòn là như vậy. Sau này khi có địa chỉ tôi có dịp vào thăm mấy gia đình họ hàng. Bác Dân đã 80 tuổi trông rất phúc hậu. Bác ôm lấy tôi mà khóc. “Ngày trước mẹ con ở với Bác. Nếu Mẹ con không mất, gia đình con ở lại Sài Gòn thì bây giờ có khi con đã trở thành sĩ quan ngụy rồi”.

Bác có con rể là tướng của ta, con trai là tá của ngụy. Cậu tôi dẫn đến thăm bác Chung ở ngôi nhà biệt thự ở phố Hai Bà Trưng. Bác là giám đốc ngân hàng Pháp Á. Trong thâm tâm tôi nghĩ Bác là tư sản mại bản. Có lẽ đoán được ý nghĩ của tôi, cậu tôi giải thích: "Giám đốc cũng là người làm thuê thôi con ạ. Ông chủ người Pháp thấy Bác là người giỏi thuê Bác cai quản cả nhân viên là ngưởi nước ngoài". Bác được Pháp bão lãnh, nhưng không đi xuất cảnh mà ở lại Việt Nam. Bác gái nói với tôi: "Bác mày, ngày trước tuần nào cũng lái ô tô riêng chở cả gia đình đi Cấp nghỉ mát, ăn cơm tiệm, bây giờ đi làm bằng xe đạp, hút thuốc Vàm Cỏ. Mỗi tháng được chia nửa ký đường để uống cafe đen. Khổ mấy ông nói cũng chiu được, nhưng  chỉ buồn vì có mấy cán bộ vào tiếp quản coi thường ông".

Sau năm 1975, tôi được đi phép đợt đầu tiên. Sau một tháng vào, đơn vị có nhiều thay đổi. Các đoàn hậu cần B2 giải thể. Tôi được điều động về Quân khu 7. Anh em hạ sĩ quan nếu không chuyển ngành thì giải quyết phục viên sớm. Nhiều anh em cầm số tiền trợ cấp ít ỏi, chưa kịp được hưởng chính sách chế độ gì đã cho về quê gấp. Tổ đài của tôi tứ tán mỗi người một nơi. Anh em qua tuổi thanh xuân, lại về với bàn tay trắng, với bệnh tật trong người, không nghề ít chữ, bắt đầu vật lộn với cuộc sống mưu sinh mới. Cậu Dè quê Phụng Hiệp lính quay viên ở với đài mình gần 10 năm. Cậu ta công tác chiến đâu rất dũng cảm tích cực. Trong rừng được mình giúp đỡ vào Đảng, dạy cho biết đọc biết viết. Thế rồi: "Sau giải phóng trở về làm dân/ Huân chương Dũng sĩ cất trong hòm/ Không nghề không chữ không chữ không ruộng đất/ Lại đi làm mướn để nuôi thân"). Ba chục năm sau mới gặp lại, trông Dè rất tiều tụy. Gặp đồng đội, cậu ta vẫn vô tư xòe hai bàn tay đen xạm, Dè cười: “Mình vẫn là vô sản/ Có gì đem ra nhậu lai rai". Nay cậu ta đã ra đi trong nghèo khó. Xã hội bấy giờ ai cũng khó khăn như vậy, kêu ca làm chi. Nghèo khó đến mấy cũng chịu đựng được nhưng sợ nhất là con cái bị chất độc da cam ... Biết vậy nhưng làm sao mà tránh được. Thương cho nhiều anh em bạc đầu còn phải đút cơm cho những đứa con tật nguyền.

Càng về già càng nhớ đến nhau. Mỗi năm rơi rụng một ít. Tháng trước anh Hanh người anh thân thiết, ở chung đơn vị thông tin Q5, Công trường 5 từ ngày đầu vào Nam đã từ giã cuộc đởi. Thủ trưởng Hai Phát nói: “Chú bị bệnh tim, không đến đám ma, để anh đi viếng thay cho”, nhưng không đi sao được. Vợ tôi về lấy xe máy chở đi, nhắc lại ngày xưa khi mình nghèo, anh Hanh ở đơn vị kinh tế hậu cần, Mỗi khi đi tàu đánh cá về, anh lại chạy đến nhà cho cá khô, nước mắm.

Anh em Bà Rịa, Long Khánh thường tổ chức họp mặt ở nhà anh Khảm mỗi năm một lần vào dịp 30/4. Nhà anh Khảm có vườn rộng, chị vợ và các con rất hiếu khách. Mấy năm gần đây trên bàn thờ đặt thêm con heo quay. Mình viết bài thơ “Tháng Tư họp mặt” đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân và báo Cựu Chiến Binh thành phố có đoạn:

Tháng Tư về

Gọi nhau họp mặt

Đồng đội ơi

Tóc bạc trắng hết rồi

Có đứa nào năm nay vắng mặt

Có đứa nào phải chống gậy đến không

Hương khói bay

Con heo quay cúng bạn

Chỉ thương nó một thời bom đạn

Ngày ra đi chưa được bữa ăn no

Anh em còn sống thì phải ráng đến để gặp nhau. Cứ tự an ủi mình dù cuộc sống có số phận thế nào, nhưng còn sống đến giờ so với những bạn bè đã mất là may mắn lắm rồi. Đất nước ngày càng thay đổi. Con cháu chúng ta đã trưởng thành bước vào thời đại công nghệ số. Căn nhà lụp xụp của gia đình cậu Phong cũng không còn nữa. Dòng kênh Nhiêu Lộc đã được chỉnh trang sạch đẹp. Khách du lịch có thể ngồi thuyền ngắm cảnh thành phố. Nghị quyết Đảng đặt mục tiêu đến năm 2045, nước mình trở thành nước giàu có, gia nhập nhóm các nước phát triển cao của thế giới. Mừng quá, nhưng anh em mình không biết ai còn sống đế chứng kiến ngày đó.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phú Yên nghĩa tình và khát vọng hồi sinh - Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng báo Văn nghệ số 50, ra ngày 13/12/2025
Xem thêm
Lời thì thầm của biển – Tản văn của Như Nguyệt
Còn bạn thì sao? Bạn nghe điều gì từ lòng biển? Tôi tin dù bạn nghe được điều gì, hãy giữ lấy niềm tin ấy thật chặt, bởi vì mọi “lời thì thầm” đều có sức mạnh của riêng nó.
Xem thêm
Diễn viên Thương Tín đã về cõi lặng
Thông tin từ chị Bùi Kim Chi (vợ Thương Tín) cho biết, Thương Tín đã qua đời vào khuya nay tại nhà riêng Phủ Hoà, Phan Rang.
Xem thêm
Ký ức về bố – Bút ký Vũ Mạnh Định
Pleiku những ngày này mưa dầm dề do ảnh hưởng bão. Mưa trắng xóa cả bầu trời, gió hun hút qua hàng cây phủ kín cả phố núi. Tiếng mưa khiến lòng tôi chùng xuống, ký ức bất chợt ùa về. Mưa như tấm màn xám phủ trùm đất trời, có khi kéo dài cả tháng không dứt. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu nỗi buồn của những cơn mưa, chỉ nhớ nó dai dẳng đến mức sáng hay chiều cũng nhập nhòe một màu xám đục. Nhưng chính sự dầm dề ấy lại trở thành lát cắt đặc biệt của tuổi thơ, để sau này, mỗi lần nghe mưa nơi khác, tôi ngỡ như vừa chạm vào những ngày Pleiku xưa cũ, ngày mưa dài đến mức thời gian như ngưng đọng.
Xem thêm
Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt
Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.
Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm