TIN TỨC

Mây trắng trong vườn chè ông nội | Tản văn của Trang Thanh

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-07-12 15:23:18
mail facebook google pos stwis
1057 lượt xem

Đó là tên một bài thơ tôi viết vào quãng năm 2015, khi chăm sóc chồng tôi mang trọng bệnh nằm trong bệnh viện. Những ngày tháng ấy, nghĩ về căn bệnh vô phương cứu chữa đang chụp bóng đen tuyệt vọng lên kiếp người, tôi hay nhớ những gương mặt người thân đã khuất bóng...

Minh họa: Đào Tuấn

Tôi nhớ ông nội, người mà tôi chỉ được sống cùng khoảng dăm, sáu năm, trong quãng đời thơ bé nhất của mình. Ông nội gầy, dong dỏng cao, nho nhã, tóc bạc trắng, đôi mắt tinh anh. Nhà có một vườn chè và tôi mặc định đó là vườn chè ông nội, vì cho đến bây giờ, hình ảnh đẹp nhất khi tôi nhớ về ông là những lần theo ông đi hái chè. Nắng chớm hè chan hòa trên sân gạch, tỏa rạng khắp lúa trên đồng, nhưng trong vườn chè, bởi mấy cây mít cổ thụ trùm bóng, nên nắng dường chỉ mới lốm đốm xiên qua những kẽ lá thành những quầng sáng mỏng mảnh, tỏa rạng trên lùm cây.

Vườn đặt sẵn một chiếc thang ghế hai chân, để mẹ trèo hái chè ở những cành cao. Ông nội đã già, không còn trèo được, ông sẽ hái lá chè ở những cành thấp. Tôi cứ líu lo bên ông, cầm rổ hứng chè, nghe giọng ông ấm áp khen cháu ông ngoan lắm. Vào những hôm ông không được khỏe, hoặc ông bận khách, mẹ sẽ hái chè cho ông. Cách hái chè của ông nội và mẹ giống nhau. Cứ chọn những lá mà mẹ gọi là từ bánh tẻ đến già săn, màu xanh sẫm. Mẹ dùng ngón cái và ngón trỏ, nhẹ nhàng bứt lá ra khỏi cành nghe tách khẽ một tiếng, rồi nắm lá thật nhẹ trong lòng bàn tay. Hết lá này đến lá khác chồng lớp lên nhau theo một cách nào đó thật tự nhiên trong lòng tay là được một nắm chè. Khi đó mẹ thả nhẹ vào chiếc rổ đặt trên mặt thang. Tôi đòi mẹ cho cầm rổ hứng lá chè, nhưng khi mẹ hái được nhiều thì rổ nặng, tôi cũng mỏi tay, đành buông rổ xuống vườn. Bà nội tôi lúc ấy không ở nhà. Bà đi chăm các em con chú thím tôi ở tỉnh xa, vào dịp Tết đến bà mới thường về, ăn Tết xong ít ngày thì lại đi.

Ông nội tôi vốn là công nhân nhà máy trấu, xưa mẹ tôi hay gọi thế, tôi nghĩ đó là nhà máy xay xát của Pháp, ngày Pháp chiếm đóng thành phố Nam Định. Khi ta lấy lại được thành phố về tay chính quyền mới, ông nội trở thành công nhân xưởng nhuộm của Nhà máy Dệt Nam Định. Hẳn là khi đó tôi chưa ra đời rồi. Nghe mẹ thường kể, trước mặt làng về phía Tây là cánh đồng Bông rộng lớn, mẹ tôi mỗi 5 giờ sáng lại chèo thuyền đưa ông qua đồng Bông để lên đường cái, là đường 38A bây giờ. Từ đây, ông có khi đi bộ, có khi đi xe ngựa vào nhà máy trong thành phố để làm việc. Chiều tối mẹ lại chèo thuyền nan bơi ngang cánh đồng Bông, chạm đường cái là gặp ông đợi sẵn, hoặc mẹ chờ một lúc thì ông về tới.

Khi tôi có mặt trên đời, ông đã nghỉ hưu lâu rồi, có lẽ ông chỉ còn làm được việc lớn nhất mỗi ngày là hái chè, hãm chè, rồi đeo kính cầm lên một quyển sách mà ông gọi là Tam quốc, thư thả vừa uống chè vừa đọc. À, ông còn có một cái thú nữa là đánh tổ tôm, với mấy cụ ông hay chống gậy ba toong đến nhà tôi, tụ tập ngồi trên sập gụ. Tôi chỉ nhớ một ông tên là Kim, ở làng bên, người nho nhã. Mấy lần ông nội và các bạn tổ tôm đêm khuya, mẹ tôi nấu cháo gà mời các ông ăn cho ấm bụng.

Mỗi tầm gần trưa hàng ngày, ngấn nắng lấn dần từ trên bậu cửa, xuống thềm hè, rồi qua hè, xuống sân. Cả một cái sân gạch trong tầm mắt đứa trẻ lên ba lên năm ngày ấy là mênh mông ngời ngợi nắng. Bố dạy tôi cách nhìn ngấn nắng để đoán giờ. Ngấn nắng bám trên bậu cửa là tầm bảy, tám giờ sáng. Ngấn nắng bò xuống thềm hè thì qua tám đến chín giờ. Khi thềm hè không còn chút nắng nào nữa, ngấn nắng đã trườn xuống sân gạch rồi, là qua chín giờ. Rồi từ đó chỉ còn chan hòa những nắng là nắng, khắp sân gạch đến vườn cây, trên mái ngói, từ vườn nhà chan chan vời vợi trên đồng ruộng.

Khi ngấn nắng trườn xuống sân gạch là lúc mẹ tôi sẽ múc nước giếng thơi để rửa chè. Rổ chè sạch mẹ đặt lên mặt bể cho ráo nước, trong khi đó ông nội bỏ bã chè hôm qua từ ấm tích ra, phủ lên mấy gốc cây mai, hoa hồng ở vườn trước. Ông múc nước bể súc sạch ấm tích, rồi vặn nhẹ từng nắm chè bỏ vào. Vặn chè là để lá chè dập nhẹ, sẽ xanh hơn, đượm nước hơn, ông nói vậy. Chè vặn đủ một ấm rồi, ông xách ấm về đặt trên thềm hè. Mẹ tôi kịp xách ấm nước vừa sôi từ dưới bếp lên. Ấm nhôm đun bếp rơm bếp củi nên đen sì muội tro và nóng quai lắm. Ông lót tay, rót nhẹ một ít nước từ chiếc ấm vừa sôi vào tích để tráng chè.

Mùi chè tươi ngan ngát thơm lên. Lúc này, ông nội khom khom trên thềm hè râm mát, rót dòng nước tráng chè xuống sân gạch đang chan hòa nắng sớm. Muôn vàn giọt nước li ti bắn ra xung quanh quầng nước đang chầm chậm bò ngoằn ngoèo trên sân như chú rắn, in xuống nền gạch một vầng hoa rắc. Tôi thích thú khoảnh khắc ông tráng chè làm thành một vầng hoa rắc lấm tấm trên mặt sân lấp lánh như thế, mỗi ngày. Ông nội thân hình mảnh khảnh, tóc trắng như mây, đẹp như già tiên trong những câu chuyện cổ. Theo mỗi chuyển động lúc rót nước tráng chè buổi sáng dưới ánh trời rực rỡ, tôi thấy bóng ông rung rinh in xuống thềm sân nắng, hiền hậu tựa một vầng mây.

Còn hình ảnh yêu thương nhất, cảm động nhất mà tôi nhớ về ông nội, chính là vào cái buổi chiều cuối cùng ông còn trên dương thế. Ông nằm nhẹ nhõm trên chiếc giường rẻ quạt. Chiếc giường gỗ mà có lẽ trong nhà tôi, bốn thế hệ đã lần lượt nối tiếp nhau gửi giấc ngủ của đời mình mỗi ngày trên đó, đến bây giờ thì đã gãy hỏng, không còn. Mẹ tôi đưa lại bên ông một quả chuối tiêu đốm trứng quốc, tha thiết dỗ ông ăn. Ông nói nhỏ, bẻ đôi quả chuối cho ông. Rồi vẫy tay ra hiệu tôi lại gần, ông đưa vào tay tôi một nửa quả chuối, khẽ bảo, con ăn đi. Tôi và ông nghẹn ngào ăn hết mỗi nửa quả chuối. Thoáng có bóng ông Kim, người bạn tổ tôm của nội chống ba toong đến, dợm tiếng từ đầu sân. Cha tôi mời ông Kim vào nhà. Ông Kim đặt tay lên trán ông tôi, cầm tay ông tôi lắc lắc và bảo, tôi đặt tên cúng cơm cho ông nhé, nội tôi khẽ chớp mắt, gật đầu. Ông Kim chừng nghĩ ngợi một lát rồi nói nhỏ tên cúng cơm cho nội và cha mẹ tôi đủ nghe. Nội lại khe khẽ gật đầu, vẻ mặt bằng lòng, và chỉ vài phút sau, đôi mắt hiền hậu của nội tôi từ từ khép lại…

Khi đó là giữa tháng sáu lịch Âm, nắng oi không thể nào tả xiết trong ngày chúng tôi đưa tiễn nội ra đồng. Rồi ngày mai, là trận bão khủng khiếp ập đến lúc nửa đêm, giật khỏi cây mít cổ thụ bên vườn chè của nội tôi mất mấy chục quả mít xanh non. Chị em tôi lội bì bõm trong vườn, bưng mít xanh về xếp dọc thềm mưa ướt. Mắt đứa nào đứa nấy mọng đỏ vì khóc thương ông, lại xót xa nghe mẹ đi đắp mộ theo phong tục ba ngày về, nói ngôi mộ của ông bị mưa bão làm ngập lút. Cả chục gốc chè trong vườn được mẹ vấn vôi tang. Cây mít cổ thụ cũng để tang ông nội bằng quầng vôi trắng xóa vấn quanh tấm thân già nua có lẽ đã gần trăm năm tuổi…

Vườn chè cổ thụ của ông nội khi ấy đương đơm một mùa hoa trắng ngần, thơm ngát. Mới buổi chiều hôm kia trước khi ông đi, mẹ dắt tôi sang vườn. Hôm ấy, mẹ hái chè thật nhiều, thật vội. Có lẽ mẹ đã chẳng còn tâm trạng nào mà kén chọn lá già săn hay bánh tẻ gì nữa. Bình thường, nếu ông khỏe, mùa này mẹ sẽ còn hái nụ chè để phơi khô, cất đi dùng thay lá chè vào mùa đông. Còn bây giờ, cứ với lấy cành nào gần mình nhất là mẹ hấp tấp hái, có khi ngắt cả ngọn non, và sùi sụt khóc. Mẹ bảo, ông con có lẽ lần này không qua khỏi rồi! Trong mắt tôi nhạt nhòa mây trắng. Tôi vốn luôn mường tượng mái tóc của ông nội mỗi lần tôi đứng lui cui nhỏ thó dưới vườn, ngước nhìn lên hình ảnh ông thoáng như chung chiêng, rung động khi với tay hái lá trên cành cao. Tóc ông tôi trắng tựa mây. Hoa chè từng đốm cũng trắng ngời dưới nắng, rung rinh trên mái tóc ông bềnh bồng, xao xuyến. Màu hoa trắng muốt, và mái tóc nội tôi, cả nắng ngời và mây trắng nhẹ bay trên vòm trời cao xanh tít tắp, tôi đều gọi, đó là mây trắng trong vườn chè ông nội.

Rất nhiều năm sau ngày vắng bóng ông, tôi luôn nhớ về màu mây trắng rung rinh trên những chòm xanh lá thắm những ngày tháng ấy. Tôi viết bài thơ “Mây trắng trong vườn chè ông nội” khi tôi chăm sóc chồng tôi trong bệnh viện và hay nghĩ ngợi về con người, về sự sống, về cái chết, về những năm tháng đời người. Thật tiếc, giữa thật nhiều khủng hoảng, hoang mang, đau đớn của những ngày tháng đó, tôi chưa kịp thuộc bài thơ thì chiếc máy cỏn con ghi bài thơ đó bị hỏng, không thể nào mở lại được. Tôi thường thuộc những bài thơ của mình sau nhiều lần đọc đi sửa lại, nhưng “Mây trắng trong vườn chè ông nội” là bài thơ chưa kịp đọc sửa, nên đã nhiều lần cố nhớ, mà tôi vẫn chỉ nhớ được câu kết: “Con ước làm mây trong vườn chè hoa nắng/ Ước nội làm mây trắng bay lên”.

Có lẽ lúc này, ông nội tôi và những người thân yêu trong gia đình đã khuất bóng, đang làm mây trắng phiêu du trên khắp các phương trời. Phương trời in bóng dáng những cuộc đời đã xa xăm, còn gửi linh hồn mình ở lại. Phương trời có hương trà hoa thơm lên từ mơ ước của bài thơ tôi viết, mỗi mùa về thành kính dâng lên, để nhớ, để thương…

Theo Trang Thanh/ Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm
Lỗi tại Sài Gòn…
Tản văn của La Mai Thi Gia
Xem thêm