TIN TỨC

Ngày của sự sinh thành - Bút ký của Lê Thị Tuyết

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-18 08:04:58
mail facebook google pos stwis
79 lượt xem

Nhân dịp 50 năm thống nhất đất nước, tác giả Lê Thị Tuyết, hội viên Hội nhà văn TP.HCM, vừa gửi Văn chương TP. Hồ Chí Minh bài bút ký về ngày 30/4/1975 và những năm tháng không thể nào quên. Bà đã tái hiện lại không khí vỡ òa của ngày đại thắng, xen lẫn niềm hạnh phúc riêng tư khi chào đón một sinh linh bé bỏng. Từ ký ức về khoảnh khắc định mệnh của dân tộc đến những chiêm nghiệm về cuộc đời và sự hy sinh của những người đi trước, bài viết là lời tri ân sâu sắc, nhắc nhớ thế hệ hôm nay về giá trị của hòa bình, độc lập và tình yêu thương gia đình, đất nước. Mời quý độc giả cùng đọc để cảm nhận!

 LÊ THỊ TUYẾT

Trưa hôm đó, (30/04/1975) Tôi cắp chậu quần áo và mang cái bụng bầu nặng nề đã 9 tháng ra sông giặt. Trời cao xanh lắm, cả dòng sông mênh mông đang bắt nắng chang chang. Tấm lưng đã dần dần bỏng rát tôi vội giặt nhanh cho xong , thì từ xa bỗng nghe tiếng hét: - Thương ơi! Về mau!

Quay phắt lại, tôi thấy chị Dung đứng trên đê tay cầm nón vẫy tôi, và không thể chờ thêm, chị lần xuống sông với cái bụng cũng đã 7 tháng nặng nề của mình. Chuyện gì cấp thiết đến thế? Tôi vội lội lên bờ. Khi đã gần hơn, chị kêu to, giọng vỡ ra vì sự vui sướng tột cùng:

- Sống rồi!... em ơi! Con chúng ta sống… rồi!

Chưa hiểu, tôi cũng hét lên đáp trả:

- Sao? Sao? Chị nói sao cơ?

- Đại thắng rồi!... quân ta đại thắng… rồi! thống nhất đất nước… rồi…!

Tôi cố đi nhanh hơn:

- Ai bảo thế? Sao chị biết?!

Chị hào hển:

- Bác… Thép nghỉ phép mới lên. Đài… Đài tiếng nói Việt Nam của… Bác… mới đưa tin… đúng rồi… hòa bình rồi!

Chân tôi như bị chôn xuống đất trước sự kiện bất ngờ! Vì niềm vui quá lớn! mà hàng triệu bà mẹ, em thơ, người vợ… toàn dân, cùng bao người yêu chuộng hòa bình trên thế gian này mong mỏi.

Bóng chị Dung nhòa đi, khi hai cái bụng song song, chị ôm choàng lấy tôi, và òa lên nức nở. Chị em tôi cùng cơ quan, đều mang thai và có chồng ngoài mặt trận. Sự xa cách và khó khăn khiến hai chị em xích lại gần nhau, cảm thông và sẻ chia, chị hơn tôi 9 tuổi.

Hai chín tuổi chị lấy chồng, anh là sĩ quan quân đội. Mấy năm chưa có con, một lần anh về thăm nhà, may mắn chị có thai. Nhưng từ đó anh đi không có thư về. Rồi có tin đồn - Anh hy sinh!. Điều khủng khiếp đó làm chị suy sụp - nhưng chưa “báo tử” - hy vọng anh còn sống lại trở về mãnh liệt trong chị. Chị chờ đợi …đến hôm nay.

Để cho cơn xúc động nguôi đi, hai chị em dìu đỡ nhau về nơi sơ tán.

Cơ quan tôi là Xưởng trường mỹ nghệ vừa dạy nghề vừa làm hàng xuất khẩu, gồm nhiều nghề: sơn mài, khảm trai, mây tre đan, điêu khắc gỗ, sừng, mộc tiện, thêu ren và trạm bạc. Tất cả có hơn 200 người, thanh niên nam nữ đến 70 người. Nhiều bác già là nghệ nhân giỏi của tỉnh được triệu tập về đây dạy nghề. Có bác được nhà nước phong tặng “đôi bàn tay vàng” rất quý. Chiến sự ngày càng ác liệt, thanh niên mạnh khỏe dần dần ra  tiền tuyến hết.

Hiện tại chúng tôi làm hàng xuất khẩu, ngày càng nhiều. Khẩu hiệu: “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”… khiến chúng tôi quyết tâm, quyết liệt dốc sức mình ra làm việc. Vì vận mệnh của đất nước, khó khăn vậy mà những kiện hàng luôn đầy đủ chất lượng, số lượng và đảm bảo về kỹ thuật, mỹ thuật, bao giờ cũng xuất khẩu đúng định kỳ. Đến ở đây, chúng tôi cũng luôn được dân làng giúp đỡ. Hôm nay tin vui đến, không biết bà con đón nhận ra sao? Vừa đến đầu xóm, đã nghe tiếng loa oang oang…

- A lô! A lô! Quân ta đại thắng rồi! Đất nước thống nhất rồi! Bà con treo cờ lên mừng chiến thắng! A lô! Nhà nhà treo cờ lên cho mau… A lô! A lô… tối ra sân đình dự mít tinh… A lô! A lô…

Đám con nít chạy theo, reo hò inh ỏi người lớn gọi nhau í ới! Đã có tiếng trống đang khua rồn rập tùng tùng… tùng tùng… thật náo nhiệt.

Đài tiếng nói Việt Nam, phương tiện thông tin truyền thông đại chúng này lan truyền nhanh quá, nó làm cho một xóm nhỏ ven đê, nơi rất xa ánh đèn thành phố, một bên là sông, một bên là đồng chiêm trũng quanh năm sống bình lặng, nay bỗng bừng bừng sống động! Thế mới biết niềm vui trọng đại này có giá trị tới mức nào, đối với những người dân bình thường nhất.

Chúng tôi về cơ quan, thấy  đám thanh niên choai choai cầm mâm, cầm xoong, chảo…gõ loạn xạ như đê sắp vỡ, các bác già nói cười ha hả, còn các chị em nắm tay nhau nhẩy vòng tròn và hát: “hòa bình trở về quê ta, bướm vui nô đùa với hoa…”. Rồi chiến thắng Điện Biên, qua miền Tây Bắc, kết đoàn… Tất cả những bài mà họ thấy hợp vào lúc đó. mặt các chị còn nhọ nhem than đánh bóng, chỉ thêu vương đầy trên áo, tay bợt trắng do ngâm nước và nở loét vì sơn ăn… mặc nó - bởi bao ngày vất vả, âu lo làm huyết khối tích tụ. Nay nhiệt huyết bừng bừng, máu lại chảy rần rật trên những khuôn mặt đảm đang ấy. Và niềm vui cùng hy vọng đang tràn về trên đôi má đỏ hồng.

Chờ không khí bừng bừng tạm lắng, anh cán bộ tổ chức tuyên bố:

- Bây giờ các tổ trưởng phân công công việc cho từng người, thu dọn ngay chúng ta trở về cơ quan cũ. Khẩn trương lên! Các bác lớn tuổi và chị em có thai ưu tiên cho về trước, nếu ai không có phương tiện đi thì ở lại cùng về với ô tô cơ quan sau.

Dãy nhà chị em chúng tôi ở có 15 người, tất cả hối hả, thu dọn đồ đạc, và chuyện trò rôm rả. Gần tôi có hai cô đùa nhau:

- Đằng ấy sướng nhá! Lần này … mà về là chết với bà! Bà đòi cưới ngay cho nóng sốt nhá! Gớm mong ngày mong đêm làm người ta sốt cả ruột… cứ lo … quá lứa!

- Ừ! thế đấy, mình không mong bằng mấy người ta ấy à? Lúc nào cũng mong… thằng cu con! Thằng cu con!

- Này! người ta cưới rồi. Thế là thường nhé! Đằng này… chưa cưới cũng mong ... thằng cu mới hay cơ! Hi hi hi…

Các cô các chị cười nói ồn ào hơn cái chợ, thì bỗng nhiên tất cả giật trái người:

- Ới anh ơi!... Anh đi Anh mang cả hai con theo!... Để em thui thủi thế này!... em về nhà với ai bây giờ… anh ơi! Đau đớn thế này… Anh ơi!

Tiếng kêu thê thảm, ai oán, đứt ruột, đứt gan phát ra từ cuối phòng. Mọi người hốt hoảng nhìn, chị Thắm đầu tóc rũ rượi, hai tay ôm đầu vật vã. Không biết nãy giờ chị đi đâu? Khi mọi người hò hát.

Tất cả chạy lại với chị, biết an ủi sao đây? Trong giây phút lịch sử thiêng liêng này, thì nỗi đau tột cùng của chị lại tấy lên. Đó cũng là nỗi đau còn đang rỉ máu của cơ quan tôi.

Ngày đó, chiến tranh đến gian đoạn quyết liệt, địch đã đem bom bắn phá miền Bắc. Chủ trương của Đảng là: Lệnh tất cả nhân dân phải sơ tán triệt để ra khỏi thành phố, thị xã. Cơ quan tôi khi đó ở thị xã Hà Đông nên chúng tôi chấp hành ngay, sơ tán rất xa thành phố. Một hôm bom nổ rung nhà… Khiến mọi người khiếp vía, bom trúng ga xe lửa, ga cách chúng tôi chưa đến 1km, đó là mục tiêu địch đánh phá giao thông đường bộ.

Không ổn, cơ quan tôi lại đến một nơi khác, ở dây có nghề rèn, cách thị xã 4km. Không có cầu cống, nhà ga hay nhà máy nào hết – yên tâm lắm – đó đây trong làng chỉ có tiếng quai búa đập sắt của các bác thợ rèn vất vả, cần mẫn làm dao, kéo …

Dân làng bố trí cho chúng tôi ở một khu chùa rất rộng, có ba dãy nhà xây trước sân chùa bỏ không của các cháu lớp 1 cũ. Chúng tôi làm thêm vài dãy nhà lá sau chùa để công nhân ở là ổn.  Nơi đây mát lắm, vì hàng cây đại thụ bao quanh ngôi chùa cổ kính, về phía đông lại có con sông Nhuệ uốn khúc chảy qua. Thật là một nơi phong cảnh hữu tình.

Hơn một năm chúng tôi sống yên ổn. Tất nhiên vẫn có báo động, luôn xuống hầm trú ẩn và ra đường phải đội mũ rơm. Với tin tức cập nhật hằng ngày, miền Bắc bị bom đánh phá những nơi đâu, ngày càng ác liệt.

Một đêm, dãy nhà quay lưng ra đường của chúng tôi bỗng nhiên rung lên bần bật, do có đoàn xe kéo theo vật nặng ầm ầm chạy ra phía sau làng, suốt đêm như vậy, sáng ra tất cả lại lặng yên.

Chiều đó như mọi khi hết giờ làm việc, mấy đứa con gái chúng tôi ra cánh đồng chơi. Đến nơi chúng tôi vô cùng sửng sốt, giữa cánh đồng mầu mướt xanh, bỗng hiện lên một khu với những thành đất được đắp gọn gàng, và nhiều bệ phóng mang đầu đạn tên lửa. Dù chúng được ngụy trang cẩn thận, nhưng những đầu thép nhọn hoắt đang chĩa thẳng lên trời sừng sững, thì rõ mồn một trên nền trời đỏ rực ánh hoàng hôn. Họ ra hiệu chúng tôi không được đến gần.

Mấy hôm sau, sáng ra cả làng đông đặc người mặc quân phục mầu cỏ úa, cầu vai và cổ áo mang phù hiệu “quân y”. Hằng ngày họ ra Viện 103 ở thị xã học, đến chiều tối lại lũ lượt trở về làng.

Những ngày tiếp theo, chúng tôi không ngồi sản xuất được lâu, một lát loa đài lại báo động: “đồng báo chú ý, đồng bào chú ý: máy bay địch cách thủ đô 300km… rồi 200…50km… tiếng máy bay đã gầm rú, chúng tôi luôn phải xuống hầm trú ẩn bất cứ ngày đêm. Không khí vô cùng căng thẳng.

Một đêm, máy bay gầm rú, tiếng động cơ phản lực xoèn xoẹt ngay sát sạt trên đầu, những người gan dạ không xuống hầm, nhìn thấy giàn tên lửa ngoài đồng xé màn đêm phóng lên trời những tia sáng đỏ lừ, cùng bao tên lửa nơi khác, với pháo cao xạ, súng trường. Đạn bắn lên đan xen nhau đỏ rực trên nền trời đen kịt, quyết liệt bắn máy bay địch.

Tiếng đạn nổ inh tai nhức óc! Tiếng bom rùng rùng kinh thiên động địa! Nhìn về phía thủ đô, dưới đất lửa đỏ bừng sáng từng vùng, người ta biết “Hà Nội bị ném bom rồi”…

Từ ngày đoàn xe đến đây, đã vài lần đang đêm họ rầm rầm kéo đi và sáng ra, đường làng cũng không còn một bóng bộ đội quân y. Mà lạ lắm! Cứ mỗi lần giàn tên lửa rời đi, là mỗi lần lớp quân y biến mất, còn sáng ra thấy bác sĩ quân y đầy đường, thì giàn tên lửa đã sừng sững ngoài đồng. Sao mà đồng nhất vậy!?

Một hôm họ cùng kéo nhau đi hết, đường làng vắng tanh, bỗng dưng chúng tôi thấy trống trải, và một cái gì chờn rợn, chờn rợn làm chúng tôi lo lắng, linh nghiệm sắp có điều gì đó xảy ra, và đúng thật.

Hôm đó trời rét như dao cắt, đã mấy đêm thủ đô Hà Nội bị bắn phá rồi, loa đài báo động liên tục, cứ nghe bom đạn dậy đất, máy bay rú rít, đạn pháo đầy trời là bà già và trẻ con trong hầm lại run rẩy. Chúng tôi có gan dạ hơn, nhưng trước cảnh bom rơi đạn lạc thế này, ai ai cũng lo âu, hoảng hốt.

Đêm đó, chừng 3h sáng (22/12/1972), lên xuống hầm mãi, chúng tôi thấy mệt. Lần báo động cuối cùng, bọn con gái chúng tôi bảo nhau không ra hầm mà chui xuống gầm giường, trùm chăn ôm nhau ngủ. Cô Trường cấp dưỡng, thương tôi lắm, cô có hầm riêng trong nhà ăn rất sạch, bao giờ cô cũng dành riêng cho tôi xuống cùng cô. Nhưng hôm đó mới từ hầm lên, tôi không xuống nữa.

Chúng tôi vừa chợp mắt bỗng đất rùng rùng rất mạnh, tiếng nổ nghe gần bục, bục, và roạt một cái, gió mạnh ào vào phòng, chúng tôi cắp chặt lấy nhau, rồi cùng bật dậy bởi tiếng thét thất thanh của chị Thắm:

- Ối giời ơi! Chồng tôi đâu? Con tôi đâu rồi!!!

Tất cả ùa ra: Khu chùa còn nguyên, trước sân nhà chúng tôi trống trơn, hai dãy nhà lá bay đâu mất!

Tôi lao theo tiếng chị Thắm – trong chùa tất cả đang chạy ra - trước sân chùa trống hoang, ba căn nhà xây biến mất như chưa từng hiện hữu, chị Thắm vừa nhẩy vừa mò đất và hét lạc giọng:

- Chồng tôi đâu? Con tôi đâu? Ối giời ơi! Con ơi!... Anh ơi!!!

- Có một cháu bé! Tiếng Anh Kiên kêu to – đồng thời nhiều tiếng tiếp theo kinh hoàng:

- Đằng này có người!  Ôi bà Trường!

-Có người nữa! Ối giời ơi! Anh Lê… còn nóng… hô hấp! Mau!

Tôi chạy sau chị Thắm (ở khu nhà chồng chị gần bờ ao) chị vồ lấy cháu bé trên tay Anh Kiên rồi ngã chúi xuống rụng rời:

- Con tôi… Lâm ơi! Con ơi!... (thằng bé mới 2 tuổi)

Đồng thời liên tiếp có tiếng kêu:

- Ở đây có người đang rên… bới đất mau!

- Đằng này có người kêu cứu! nhanh lên…

- Có một cháu bé – có người hét ngay cạnh tôi – tôi vồ lấy và thét lên: cháu Quỳnh con chị, chị Thắm ơi! Cháu còn thở, mau lên! Anh Kiên nhào đến ôm xốc cháu lên cùng chị Thắm ôm cháu Lâm, hai người vừa lay gọi cháu vừa chạy về hướng bệnh viện.

Tôi lao lại chỗ cô Trường và anh Lê, mọi người đang cuống lên hô hấp cho họ, thương quá cô ơi! Còn anh Lê anh chưa có vợ, người ta cố cứu... Nhưng khi nâng đầu anh lên thấy ươn ướt, sau gáy anh bị vỡ, và óc đang chảy ra rồi…thê thảm quá! Trời ơi! Ai bảo anh vào hầm trú ẩn cùng cô Trường, “chỗ” của tôi… (vì buồn ngủ mà tôi đã thoát chết trong gang tấc).

Tất cả chúng tôi chồm chồm cào đất, vớ được miếng ngói hay mảnh gỗ là vồ lấy đào bới. Trời vẫn tối quá, những hầm chữ A đất phủ mỏng thì người sống sót, những hầm chìm dưới đất như vị trí hầm của cô Trường và bố con anh Phúc (chồng chị Thắm) thì bị bắn tung lên. Còn hai chú họa sĩ cạnh đó vài mét cùng chung một nhà thì lại bị đất phủ lên rất chặt. (Gần đó, thay vào cái giếng khơi, là một hố bom khổng lồ, sâu hoắm). Chúng tôi khẩn cấp bới đất, xốc được hai chú lên thì cả hai đã chết. Có lẽ không chết do ngạt thở cũng chết vì sức ép bởi tai hai chú đều chảy máu.

Chao ôi! Tôi bủn rủn tay chân khi lôi được đồng nghiệp của mình trong hầm lên, thì họ đã mềm nhũn, không còn thở nữa. Chúng tôi kêu, chúng tôi khóc thảm thiết, mà hai tay vẫn mò bới đất như điên như dại khi tìm thấy vị trí của hầm ai đó.

Tờ mờ sáng thì vị trí tất cả các hầm trong khu đã đào bới hết, phần lớn là hầm chữ A, nên thoát chết khá nhiều, còn bao người bị thương, được đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay.

Khi mặt trời đỏ lừ, nhuốm máu tang thương! vừa nhô lên khỏi bờ sông, chiếu ánh sáng lên khu đất trống trơn, hoang tàn, và soi rõ một hàng dài với 13 thi thể, mặt xám đen khốn khổ.

Có 8 người lớn và 5 đứa trẻ thơ. Đó là ông giám đốc, 4 họa sĩ, hai cô cấp dưỡng và bác Phiên đã 70 tuổi thợ thêu. Trong số đó có hai con của chị Thắm (các cháu đã chết trên đường đến bệnh viện) và chồng chị (họa sĩ Phúc). Tìm mãi không thấy anh, có người làng mách thấy có người nằm bên bờ ao còn thoi thóp thở, họ đã mang ngay anh xuống trạm xá xã… khi chị xuống tìm thì anh đã chết, mặt xạm đen khói bom, đang nằm giữa bao thân xác của những người thợ rèn lao khổ.

Tất cả chúng tôi đứng vây quanh đồng nghiệp của mình mà nước mắt lăn dài. Những người mới hôm qua còn mạnh khỏe, chúng tôi đã làm việc có nhau, ăn cơm có nhau. Cùng đồng cam cộng khổ, thân thiết gắn bó bao năm qua. Nay bổng dưng chết tức tưởi, thảm thương, làm trái tim người còn lại rung lên đau đớn. Tất cả muốn gào lên, muốn thét lên vì hờn căm và tiếc thương, xót xa bao nhiêu trước những thân thể của các cháu còn quá non nớt này.

Chiến tranh là thế này đây, có trực tiếp chứng kiến mới thấy thấm thía cái bạo tàn của nó, đó là sự hủy diệt tàn khốc, dã man, đẫm máu. Nó nhắm vào trẻ thơ, cụ già, phụ nữ và những người thợ lành nghề vô tội.

Để có ngày hôm nay, ngày thống nhất non sông, ngày lịch sử trọng đại và ngày huy hoàng của đất nước đã chịu quá nhiều khổ đau này. Biết bao xác thịt của nhân dân, chiến sĩ ta đã trải khắp chiều dài đất nước. Nay Hòa Bình đến ý nghĩa của nó trọng đại đến thế nào, giá trị của nó lớn lao đến thế nào đối với nhân dân ta thì không sao nói hết.

***

Hôm nay cả dân tộc mừng rơi nước mắt, thì chị Thắm tủi thân.

Chị Thắm ơi! Chị mất chồng con đau đớn lắm! Tôi đã nói với chị rằng - tôi cũng có cùng chung sự mất mát như vậy, nên thấu hiểu nỗi thống khổ của chị: vì cha tôi hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, để lại tôi còn trong bụng mẹ. Mẹ sinh tôi, rồi nuôi tôi được mấy năm, khi cái hình hài yếu ớt ấy đang rất cần hơi ấm của lòng mẹ, thì mẹ đã để tôi lại cho bà nội rồi đi bước nữa. Tôi mất cha, không mẹ! Để:… Đêm đêm bé bỏng ôm bà!

 Ngoài kia tê tái sương sa đẫm vườn!...

Cái tủi, cái hờn của tôi đến đất trời còn cảm thấu. Tôi đã căm thù chiến tranh đến mức nào để cả đời tôi không anh, không em, đơn độc -  và chồng tôi nữa, anh là một họa sĩ trẻ tài năng. Liệu anh còn có trở về, hay máu xương anh đã trộn vào đất nước mất rồi…

Trong cuộc chiến một mất, một còn, thì không cứ gì tôi và chị, còn có gia đình chết cả nhà. Còn có cả làng bị hủy diệt nữa kia…

Tôi nắm bàn tay chị vuốt nhè nhẹ:

- Nỗi đau của chị, của em còn nhỏ lắm so với họ phải không? Còn có nhiều cách cho chị làm lại mà. Vậy chị hãy can đảm lên, để không ảnh hưởng đến bà con mừng ngày độc lập… chị nhé! Nghe em nhé!

Chị nắm chặt tay tôi, ngồi dậy vấn lại tóc, với hai dòng lệ chan hòa, nhưng chị đã bắt tay vào dọn dẹp. Lời của tôi đã có tác dụng, mọi người thở phào, không khí vui trở lại.

Chị Dung hôm sau về cùng xe tải nên chiều đó tôi về sớm. Ngày ấy bụng mang dạ chửa đến ngày sinh vẫn làm việc, vẫn đạp xe đạp, và xe lại chằng buộc cồng kềnh bao nhiêu thứ là việc bình thường, chúng tôi tự biết phải cố gắng như thế nào, vì trong bản năng của chúng tôi luôn có cái  “gan” cái “lì” của phụ nữ thời chinh chiến: không ỷ lại, không yếu đuối, không biếng nhác…

Đường đầy ổ gà, ổ voi, mà xe tôi vẫn bon bon. Trên đường bao người cũng lũ lượt trở về Hà Nội, sau nhiều ngày dắt díu, bồng bế nhau đi sơ tán. Nắng gắt, mặc, mỗi lần xe ô tô qua khói bụi mịt mù, mặc, bởi lòng tôi chỉ thấy nao nức với niềm vui khôn tả - Hòa bình rồi, hết chiến tranh rồi, con tôi không phải chui hầm khốn khổ nữa! Và chồng tôi sẽ trở về.

Đang lâng lâng, thì bỗng xẹt xẹt xẹt… Tay lái tôi loạng choạng, cái va li tụt nghiêng, xe mất thăng bằng và tôi lăn xuống đất. Mấy người đi đường xúm lại đỡ tôi lên, chằng buộc đồ đạc lại cho tôi và nhìn tôi ái ngại. Tôi cười vui vẻ: “Chúng em” không sao đâu ạ! Em cám ơn ạ! và lại leo lên xe đi tiếp, tất nhiêu tôi cũng thấy hơi lo.

Quả nhiên về nhà được hơn một tiếng thì tôi thấy lâm râm đau bụng, mới đầu ít, sau cơn đến mau dần và đau nhiều hơn. Tôi vội tắm nhanh và mang tã lót lên bệnh viện gấp. Nhà tôi cách bệnh viện hơn nửa cây số nên đi bộ được: Tôi đi một mình vì cả khu tập thể còn ở nơi sơ tán.

Tối đó tôi không nằm, không ngồi được với những cơn co thúc, bụng đau không sao chịu nổi. Xung quanh các chị đi đẻ đều có mẹ có chị em gái đỡ nâng, còn tôi… Nghĩ đến chồng! Nước mắt tôi dàn dụa! Bao ngày cách xa, thì hôm nay tôi thấy thiếu vắng anh rõ nhất. Sự cô đơn làm tôi yếu mềm đi. Tôi mệt và khát quá… Chao ôi! Tôi đã thấm câu “đau như đau đẻ” ra sao. Mặc dù tôi cố nghĩ đến niềm vui chiến thắng, cho quên đỡ đi mà vẫn đau quá! Mồ hôi hòa nước mắt đầm đìa.

Đến đêm tôi mệt lắm! Những ngày qua chúng tôi ăn uống kham khổ quá, buổi trưa được hai bát cơm vơi vơi, chiều hai nắm bột mì luộc và một bát con canh rau muống. Nếu một thân thì cũng còn tạm ổn, đằng này có em bé ở trong bụng thì thiếu chất quá. Tôi không thể nương tựa vào ai, lương còn để sắm đồ cho ngày sinh con. nên tôi gầy guộc lắm.

10 giờ đêm, gần cạn hết sức lực thì cũng là lúc tôi nhẹ bỗng người, tiếng oa oa kèm theo tiếng reo của cô hộ lý. “Con trai rồi! Thằng bé xinh quá!”... Làm tôi tỉnh lại. Chao ôi! Rã rời!

Khi chị đặt nó vào vòng tay tôi, tôi sung sướng đến nghẹn ngào! Ôm chặt lấy thằng bé với niềm vui vô bờ của người lần đầu tiên được làm mẹ.

Cả đêm tôi thao thức ngắm nhìn con, lòng thầm cám ơn tạo hóa, đã cho nó được thừa hưởng những nét đẹp như tạc của cha nó - đó là vầng trán thông minh, đôi mắt đen, cái mũi cao và đôi môi đầy đặn nghiêm nghị - Bây giờ những nét ấy còn không hay là… cả đêm tôi ngắm con và lo lắng về chồng không sao ngủ được.

Mới 5 giờ sáng, tôi bỗng giật mình ôm chặt con, một tràng pháo nổ ngoài phố, rồi pháo nữa, pháo nữa… cứ tạch tạch đùng khắp nơi. Những đám mây đen mang mùi diêm sinh tràn vào khu bệnh viện, tất cả mọi người nhổm cả lên: Ngoài kia, cả rừng người ùn ùn đổ ra đường. Họ hò reo! Nào băng rôn, biểu ngữ, cờ đỏ sao vàng rợp trời, và trong âm thanh náo nhiệt ấy bỗng vang lên khúc hát: - Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!...

Ôi! Nhạc sỹ nào sáng tác mà nhanh đến thế! giai điệu bài hát hào hùng, lời ca đầy ý nghĩa xúc động lòng người. Đang vang xa và lan truyền trong đoàn người trùng trùng, điệp điệp, đang ào ào tràn ra quảng trường lớn của thị xã…

Không khí ngùn ngụt ấy như lốc cuốn ào vào phòng, làm con tim đang yếu ớt của tôi - cảm nhận niềm vui thiêng liêng quá mạnh - Khiến tôi run lên và toàn thân nổi da gà… lát sau bình tĩnh lại,  tôi ôm con ra ban công và chồm hẳn ra ngoài lan can, để nhìn rõ hơn, để nghe rõ hơn và sung sướng hoà niềm vui nho nhỏ của tôi, vào niềm vui lớn lao của dân tộc. Hạnh phúc vậy, mà sao nước mắt tôi cứ chan hòa!

***

Cho đến nay 40 năm đã đi qua, con tôi hằng ngày đi trên những đại lộ thênh thang, bên bao dãy nhà cao chọc trời, và cháu tôi được học trong những khu trường khang trang, cùng nhiều tiện nghi đầy đủ.

Tôi và chị Dung ở chung một nhà (chúng tôi đã là thông gia với nhau). Còn chồng chúng tôi không bao giờ trở về!!! Các anh không được thấy con của mình. Chúng thật đẹp, học rất giỏi và đã thành đạt. Hai đứa thương mẹ lắm. Chúng thường lặng lẽ khi hai bà ru cháu ngủ, nhâm nhẩm ngâm bài “đợi anh về” của Ximônốp!

Chúng tôi thường bảo các con: Để có ngày nay, dân tộc ta đã trải qua bao cuộc trường chinh đẫm máu. Các con phải nhớ công ơn đó mà học tập, rèn luyện đạo đức cho tốt.

Bốn mươi năm cùng thương đau đã trôi qua, nhưng cứ đến ngày 30/4 thì dư âm của chiến tranh và ngày hòa bình đầu tiên, vẫn vẹn nguyên và đậm nét trong tôi!

Sài gòn, ngày 30 tháng 05 năm 1975

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Quan trí” - Bút ký của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 3193
Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm