TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Những cống hiến, hy sinh của người lính đánh đổi để có hoà bình, phát triển kinh tế đất nước

Những cống hiến, hy sinh của người lính đánh đổi để có hoà bình, phát triển kinh tế đất nước

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-07-08 17:03:51
mail facebook google pos stwis
1075 lượt xem

Trung tướng, PGS, TS NGUYỄN ĐỨC HẢI
Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng/BQP

Tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng ngày 26/1/2021, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đó là khát vọng của độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc. Khát vọng của hoà bình, hội nhập, sánh vai với các cường quốc năm châu trong xu thế phát triển của thời đại. Đó là cả một chặng đường đầy chông gai, thử thách trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, mà bao thế hệ người Việt Nam thân yêu kiên cường chống chọi với thù trong, giặc ngoài, thiên tai, bão tố… Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đoàn kết vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến giành chính quyền. Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời; nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ.

Vừa giành được độc lập, tự do sau gần một thế kỷ bị ngoại bang đô hộ. Nhân dân Việt Nam thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng lại quê hương, đất nước. Nhưng thực dân Pháp rắp tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “… chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”. Với đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính. Dân tộc Việt Nam tiến hành chiến tranh nhân dân với lực lượng vũ trang làm nòng cốt, vừa tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, vừa phải đánh bại bọn can thiệp Mỹ; cả nước bước vào cuộc trường chinh đầy hy sinh ác liệt. Trong số đó phải kể đến những người lính cụ Hồ xông pha nơi trận tuyến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Hễ còn một tên xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi”. Tiến bước dưới quân kỳ, Quân đội Nhân dân Việt Nam “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” đã anh dũng chiến đấu ngoan cường, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Ra đi từ người lính quần nâu, áo vải, dép cao su, nhưng với lời thề son sắt “Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi; ra đi, ra đi thà chết chớ lui”. Những đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nghiêm trang mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật – Pháp và bọn việt gian phản quốc làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới” (1). Chí khí cách mạng, lòng kiên trung yêu nước, thương dân, bản lĩnh chính trị dám xả thân vì nghĩa lớn với ý chí không thể gì lay chuyển “Bao giờ cũng kiên quyết chiến đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước” (2) và “… nếu bị quân địch bắt được thì dù cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thành với sự nghiệp giải phóng của toàn dân, không bao giờ cung khai phản bội” (3). Được Đảng và Bác Hồ trực tiếp sáng lập, giáo dục, rèn luyện; trưởng thành và chiến thắng; Quân đội nhân dân Việt Nam càng đánh càng mạnh, xứng đáng “Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Mới ra đời với gậy tày, súng kíp đã cùng toàn dân đánh Pháp, đánh Nhật, đưa cách mạng tháng tám đến thành công; lên mười tuổi đã cùng toàn dân giành được thắng lợi lớn Điện Biên Phủ, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được Mỹ góp sức. Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến và cũng anh dũng trong hoà bình… Quân đội ta cũng đã góp phần tích cực xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá và làm tròn nhiệm vụ của một quân đội cách mạng…” (4). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go, ác liệt, dân tộc Việt Nam phải chịu đựng biết bao sự hy sinh, mất mát. Lớp lớp thanh niên nam, nữ tình nguyện xung phong lên đường chiến đấu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”, quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Tám mốt ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị. Dưới mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù, các đơn vị quân giải phóng đã chiến đấu vô cùng quả cảm, kiên cường bám trụ, chốt giữ, giành giật với địch từng mét chiến hào, từng đống đổ nát, mưu trí linh hoạt tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Trong 81 ngày đêm ấy, hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh tại đây chưa lấy được hài cốt, xương máu các anh đã hoà quyện vào gạch đá đổ nát, hoà vào dòng sông Thạch Hãn ở tuổi đôi mươi. Những chiến thắng Núi Thành; Phước Long – Bình Long; chiến dịch Tây Nguyên; Huế - Đà Nẵng đã giáng cho Mỹ - Nguỵ những đòn chí mạng, thất bại thảm hại. Quân giải phóng thần tốc, dũng mãnh đập tan và mở tung cánh cửa thép Xuân Lộc, với những cánh quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn, thống nhất Tổ quốc. Lá cờ đỏ sao vàng kiêu hãnh tung bay trên nóc dinh Độc Lập; báo hiệu sự cáo chung của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn và quan thầy Mỹ. Để có hoà bình là cả một chặng đường dài chiến đấu, hy sinh anh dũng của dân tộc Việt Nam, là sự cống hiến to lớn, không tiếc tuổi xuân của tầng tầng, lớp lớp người lính cụ Hồ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng nói: “Máu đào của các liệt sĩ đã nhuộm lá cờ cách mạng càng thêm đỏ chói. Sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”.

Năm tháng đi qua, chiến tranh đã lùi lại. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang đạt nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế - xã hội đang từng bước vượt qua thử thách, tăng trưởng. Chính trị ổn định, chế độ được giữ vững, đất nước vững bước trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đó là giá trị của hoà bình. Để đi tới mục tiêu thiêng liêng hoà bình – độc lập – tự do – hạnh phúc; hàng triệu liệt sĩ đã hy sinh, nhiều người chưa tìm được hài cốt, thi thể các anh còn nằm lại trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia, biển đông… Hàng trăm ngàn liệt sĩ đã được quy tập về các nghĩa trang nhưng chưa xác định được danh tính, tên tuổi, quê quán, đơn vị,… Hàng triệu thương binh mang trên mình thương tích chiến tranh, phơi nhiễm chất độc da cam…; có đất nước nào như dân tộc Việt Nam. Suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, nơi đâu cũng trầm mặc những nghĩa trang bốn mùa hương khói. Không chỉ trong chiến tranh; trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, những người lính cụ Hồ vẫn xông pha nơi đầu sóng, ngọn gió, giữa biển khơi, biên cương Tổ quốc, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, giữa đại dịch Covid đã hy sinh thầm lặng vì sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Mỗi độ tháng bảy về, trái tim của muôn người con đất Việt lặng lẽ thắp nén tâm nhang tri ân liệt sĩ. Nhà thơ Trần Thế Tuyển đã khắc hoạ trong tâm thức bao thế hệ về một tượng đài liệt sĩ sống mãi trong lòng dân “Thân ngã xuống vì đất đai Tổ quốc/ Hồn bay lên hoá linh khí quốc gia”. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ người trồng cây” thắm đượm nghĩa tình, ngày càng lan toả như một đạo lý, nhân văn cao cả.

Sau quá nhiều đổ máu và mất mát vì chiến tranh, các thế hệ Việt Nam đã và đang chung tay bảo vệ hoà bình; khơi dậy động lực cống hiến – hy sinh vì một Việt Nam phát triển, phồn vinh. Bảo vệ và phát triển những giá trị thiêng liêng mà cha anh để lại; xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở: “Tất cả mọi người chúng ta hãy luôn ghi nhớ và tâm niệm: Hãy sống, chiến đấu, lao động, học tập và làm việc sao cho xứng đáng với những người đã khuất, đã hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân!”. Bởi vậy, bảo vệ hoà bình, giữ vững môi trường hoà bình luôn là mong ước, là lẽ sống còn và khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Chỉ có hoà bình bền vững, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, độc lập dân tộc được bảo vệ, lợi ích quốc gia là tối thượng thì nhân dân ta mới được hưởng tự do, hạnh phúc, tạo điều kiện môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh. Hoà bình là điều kiện, là cơ sở cho sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tự lực, tự cường vượt lên chính mình; phát huy mọi nguồn lực quốc gia. Tự lực cánh sinh, hội nhập quốc tế sâu rộng, đi tắt, đón đầu những thành tự khoa học, tri thức nhân loại để phát triển toàn diện đất nước. Chỉ có sức mạnh nội sinh, niềm tin với Đảng, khát vọng và hoài bảo lớn lao, chúng ta mới thực hiện thành công công cuộc đổi mới; với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Tôn trọng lịch sử; tri ân bao thế hệ đã ngã xuống vì sự trường tồn của dân tộc; gác lại quá khứ, mỗi người dân Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn nữa để bảo vệ hoà bình, ngăn ngừa chiến tranh, phát triển kinh tế, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính chúng ta đang thực hiện tâm nguyện của người đã khuất. Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và ý chí để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. Nỗ lực xây dựng một nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng. Ghi sâu lời dạy của Bác “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Quân đội nhân dân Việt Nam với truyền thống 80 năm anh hùng trong chiến đấu và phòng chống thiên tai thảm hoạ, thông minh, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học – công nghệ và lao động sản xuất. Nguyện xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng, nhân dân. Nâng cao cảnh giác, chủ động sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, bảo vệ vững chắc môi trường hoà bình; đóng góp sức mình cùng cả nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh… Phụng sự Đảng, phụng sự Tổ quốc, nhân dân, xứng danh “Bộ đội cụ Hồ”, bộ đội của dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Một vài hình ảnh Trung tướng Nguyễn Đức Hải và các đồng đội trong các hoạt động tri ân các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ...

TP.HCM, 5/7/2024

N.Đ.H

Chú thích:

  1. (2)  (3) Trích lời thề 1,3,6 (Trong 10 lời thề của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân)

(4) Hồ Chí Minh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm
Lỗi tại Sài Gòn…
Tản văn của La Mai Thi Gia
Xem thêm