TIN TỨC

Những đường xuân rộng mở – Tản văn của Lữ Mai

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-17 22:42:18
mail facebook google pos stwis
1988 lượt xem

Nhắm mắt lại mà tưởng tượng, chợt thấy mình được trở về vòm trời ấu thơ, trong tiếng chim non ríu rít, trong hương thơm dịu nhẹ thanh tao từ muôn hướng đường xuân rộng mở.

Cảm giác mướt mát, tươi non, nồng ấm… cứ dâng ngập, bao bọc lấy những dấu chân. Tôi nhớ thời thơ nhỏ, chiều tháng Chạp, đám trẻ lăng xăng từ nhà chạy túa ra đường, sương từ dãy đồi sau làng tràn cả xuống cánh đồng trơ gốc rạ, bò lan lên con đường cỏ đã úa và hoa xuyến chi tim tím nở bừng. Rồi cứ thế, bước chân trẻ chạy tới đâu, sương như tan loãng dần, nắng mơ màng chiếu rọi. Từng tia sáng dịu dàng, dè dặt.


Nhà thơ trẻ Lữ Mai.

Mỗi khi nghĩ về những tia sáng ấy, tôi thường nhớ mẹ. Khi chúng tôi hỏi mẹ: “Khi nào xuân về?” Mẹ luôn nói: “Mùa xuân đợi sẵn đằng kia, khi nào tán cây gạo đầu làng gọi về đàn sáo, nghĩa là xuân đến thật rồi”. Cuối năm, trời lạnh và nắng hanh đến héo hắt. Mẹ tôi ngồi xếp lại tủ quần áo cho cả nhà, phân loại ra, cái đem vắt sổ lại, cái cắt thành khăn, cái gấp ngay ngắn cho vào chiếc rương kỷ niệm… Cũng có khi, mẹ tôi xay bột nếp, hong khô, từng nong từng mẹt tròn xoe bày kín khoảng sân hút gió.

Lũ trẻ chúng tôi vẫn cứ mê mải với những con đường đất. Đường ruộng kẻ dọc, kẻ ngang như bàn cờ, cỏ ba lá ken dày, lên bông mảnh mai gầy guộc. Đường đê lồng lộng mà mỗi khi chạy chơi hoặc ngồi yên nhìn dòng sông mùa cạn, bao nhiêu tưởng tượng ùa về. Bên kia sông, chỉ cách một chuyến đò, mà xa tít tắp. Bác gái tôi lấy chồng bên ấy, tôi còn được mẹ chỉ cho chiếc nhà ngói nâu bé tin hin cũng nép dưới bờ đê. Nhà bác đó, tôi khôn nguôi tưởng tượng, bác sống thế nào, các chị có đang chạy chơi như tôi, đường đê bên ấy có nhiều lỗ dế, châu chấu voi và đàn bươm bướm trắng rập rờn bay nương theo gió.


Ảnh minh họa.

Có một con đường in sâu trong trí nhớ tôi mà dân làng vẫn gọi: Đường Thiêng. Không biết ở những ngôi làng khác có con đường này không, và họ có cách gọi thế nào, nhưng đường Thiêng trong mắt tôi đến tận bây giờ vẫn chất chứa bao điều bí mật và gợi mở. Con đường ấy chia đất làng thành hai thế giới âm – dương. Bên này làng mạc, ruộng đồng, bên kia ngập tràn cỏ hoa, sườn đồi là nơi an nghỉ của người đã khuất. Từ tháng Chạp tới mùa xuân, lũ trẻ rất thích băng qua con đường nhỏ, thơ thẩn chơi đùa. Bà tôi kể chuyện, nơi ấy không chỉ có người làng nằm lại, mà thời chiến tranh, các chú bộ đội vào chiến trường chưa qua được bờ bên kia sông Mã đã gặp đạn bom, nằm mãi nơi này. Dưới tận sâu lòng đất, có phải bởi thanh xuân, nguồn sống vẫn bừng lên, mà cỏ hoa đường Thiêng rực rỡ, nồng nàn.

Sau này, sống ở phố phường, vào mùa xuân, vẫn có những con đường khiến tôi rung động, cảm giác mềm mại, mướt mềm và khấp khởi hệt tháng ngày tuổi thơ. Nhưng phải chờ qua tháng Chạp, khi lòng người đang miên man nỗi nhớ khoảng trời quê nền nã sắc tím hoa xoan, đỏ bừng hoa gạo thì đường phố trước nhà hoa sưa đã lác đác rụng rơi. Vì sao loài hoa này có cái tên kỳ lạ như vậy? Cho đến bây giờ đó vẫn là điều bí ẩn. Sưa ở Hà Nội không nhiều, rải rác ven hồ Ngọc Khánh, phố Phan Đình Phùng, công viên Bách Thảo. Riêng đường Cổ Ngư xưa chỉ còn độc một cây sưa trắng, phố Cầu Gỗ cũng còn vài ba cây kề nhau, hoa lá vương vít cả lên ban công một ngôi nhà cổ màu sơn tường úa vàng xen lẫn phong rêu. Ở nhiều câu đối trong đình Ngọc Hà có nhắc nhiều đến những cây sưa cổ thụ trên Núi Sưa, Bách Thảo với những giấc “mộng ứng” giữa khung cảnh “chín tầng mây buông thấp”, “nước lặng sông yên”.

Ai từng trú chân ở mảnh đất Hà thành qua những mùa hoa, có thể nhớ da diết một con đường rất nhiều cây cơm nguội vàng trên phố Yên Phụ, hay lối Cổ Ngư với “đường phượng bay mù không lối vào” nhưng người quyến luyến với hoa sưa thì lại không nhiều lắm. Đơn giản bởi loài hoa này chẳng dễ mang đến một niềm choáng ngợp về thị giác, một cảm xúc mạnh mẽ thoáng qua mà ai trót thầm thương trộm nhớ hoa sưa sẽ cảm nhận được nỗi mong manh, chơi với như trước mắt ta là một mùa mây lạ. Điều kỳ diệu nhất là mùa hoa sưa chỉ về sau những cơn mưa nơi phố thị. Ấy thế nên có những người đặt cho loài hoa này cái tên “Hoa đón mưa”. Nếu không có mùa hoa chỉ vẻn vẹn một đôi tuần, có lẽ loài sưa đã an phận khép mình giữa ồn ào phố thị để rồi sắc trắng, sắc xanh cứ lặng lẽ hòa vào nhau trong sự thanh khiết như thể lắng đọng bao tinh túy của đất trời.

Vài người bạn phương xa chưa từng đặt chân đến Hà Nội cứ hỏi mãi tôi: “Con đường hoa sưa Hà Nội có đẹp không, đẹp như thế nào?” Nhưng sắc hoa trắng bồng bềnh, dịu nhẹ kia dễ khiến ngôn từ bất lực. Loài hoa ấy mải miết, quyến luyến con người bằng linh giác, cả khi ta nhắm mắt lại, nhất là trong những giấc mơ. Những ngày xuân không nồm ẩm, mây mù. Những ngày trời trong và nhẹ, hoa sưa mở cánh vừa khi sương sớm từ giã mặt hồ, những luồng nắng xuyên tàng cây tựa hồ bện trong khói… Nhà văn Băng Sơn từng ví von, có lẽ loài hoa này là linh hồn một cô gái ngàn xưa kết tinh thành bạch ngọc, cứ mỗi độ xuân về lại nhớ tình lang nên hiện ra mơ hồ rồi lại bay về hư ảo. Tôi thì hình dung ra dáng dấp của một nàng cung nữ mười mấy tuổi, sắc nước hương trời chịu cảnh cô quạnh chốn lãnh cung. Nàng thoát tục trong bộ xiêm áo trắng muốt, nhẹ như mây. Nàng mãi mãi thuộc về cõi trinh thiêng, lặng lẽ. Để rồi cứ mỗi mùa hoa, bao nhiêu cặp mắt ngước nhìn là bấy nhiêu nỗi bâng khuâng ở lại.

Chính độ xuân căng tràn, diệu vợi, những loài hoa mỏng mảnh như mây vờn quanh từng con đường. Tàn hoa rụng vương vít từ hè phố đến tàng cây vì thân phận mỏng manh, dịu nhẹ. Giữa khoảng chơi vơi, lơ lửng của nỗi niềm ai đó chờ mưa, muốn gom mây lại mà đưa nhau về thì mùa hoa đã sắp sửa qua đi với những giọt mưa hồi sinh trong đáy mắt.

Sau những mùa hoa, tôi có thói quen, dạo bước trên đường phố Phan Đình Phùng ngắm những loài cây đang vào mùa trút lá. Cái vẻ ngoài gầy guộc, mong manh kia gieo vào lòng người sự trắc ẩn rất mông lung. Thế mà sấu vẫn đan lá kết vòm xanh rì trên cao như bức tường thành bất chấp. Loài cây duy nhất phó mặc giá lạnh, bão giông. Kể cũng lạ, sấu lúc xanh thì xanh đến kiệt cùng, khi trút lá vàng thì ráo riết như chẳng có gì phải tiếc thương, và đặc biệt, mùa hoa bao giờ cũng đến dịu dàng, khiêm nhường trong tít sâu vòm lá. Nhắm mắt lại mà tưởng tượng, chợt thấy mình được trở về vòm trời ấu thơ, trong tiếng chim non ríu rít, trong hương thơm dịu nhẹ thanh tao từ muôn hướng đường xuân rộng mở.

Theo Lữ Mai/Vanvn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Cây bàng vuông trên đất Hải Châu
Về quê, tôi nhận được tin nhắn của Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát Nguyên Chính uỷ Vùng 5 Hải quân “Trân trọng mời anh dự lễ trồng bàng vuông do Mặt trận Tổ quốc huyện đảo Trường Sa tặng“. Đúng giờ chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ của Chuẩn Đô đốc nằm cạnh dòng kênh nhỏ bên bờ biển Thịnh Long nổi tiếng, thơ mộng. Đồng đội, bạn học và bà con nội ngoại của chủ nhà đã tề tựu đông đủ. Phần lớn là cựu chiến binh (CCB) lớn tuổi quân phục hải quân trắng tinh với đường viền màu xanh da trời thân thuộc.Gặp nhau là quý rồi. Một CCB cao niên mặc quân phục Hải quân nhắc lại lời của Người Anh Cả quân đội – Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm mọi người rưng rưng. Tôi thấy đôi mắt Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát đỏ hoe. Càng thấy việc làm của vị tướng Hải quân này có ý nghĩa.Chỗ quen biết từ lâu (anh trai Ngô Văn Phát học cấp 3 cùng liên khoá với chúng tôi), Ngô Văn Phát bộc bạch:• Có thể nói cả đời quân ngũ, tôi gắn bó với biển đảo. Năm 2024 thăm lại Trường Sa. Bà con và đồng đội tặng cây bàng vuông. Tôi mang về quê trồng để ghi nhớ những năm tháng gắn bó với Trường Sa, biển đảo. Khi làm báo QĐND, tôi có dịp làm việc với Ngô Văn Phát và đơn vị của anh- những chiến sĩ Hải quân như cây phong ba, bàng vuông giữa biển cả. Người con trai có dáng nhỏ thó, nhanh như sóc từ làng quê “ chân lấm tay bùn” trở thành vị tướng chỉ huy tài ba như đồng đội của anh khen tặng. Trở về đời thường, Ngô Văn Phát sống bình dị như bao chàng trai miền sông nước này. Luôn hướng về quê hương, góp sức xây dựng nông thôn mới, Ngô Văn Phát còn trực tiếp làm Chủ tịch Ban liên lạc cựu học sinh THPT B Hải Hậu tại TP.HCM và khu vực phía Nam. Dưới sự hướng đạo của vị tướng – cựu học sinh này, hội cựu học sinh THPT B Hải Hậu đã làm được nhiều việc cho quê hương, cho ngôi trường nơi có cây gạo đã đi vào truyền thuyết.“Cây gạo trường ta“ của nhạc sĩ An Hiếu (phổ thơ TTT) đã trở thành ca khúc truyền thống nơi mảnh đất “tầm tang“ giàu đẹp.Cây bàng vuông được Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát trồng cạnh dòng kênh nơi mảnh đất địa linh sinh nhật kiệt.Mảnh đất miền hạ sông Ninh, cách nay 500 năm tứ tổ khai sáng và cửu tộc lập nghiệp, trong đó có tổ cả của người viết bài này- Cụ Trần Vu – Dinh điền sứ thời hậu Trần. Mảnh đất ấy cách đây vài trăm năm quan triều Nguyễn – nhà thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ đã đến đây dẫn dắt cư dân khai phá lập nên miền đất mới. Địa linh sinh nhân kiệt nơi này đã sản sinh ra nhiều “nhân vật nổi tiếng”. Tên tuổi của họ gắn với sự cống hiến cho đất nước như: các vị tướng: Trần Thanh Huyền (Chính uỷ Quân chủng Hải quân) Trần Văn Xuyên (Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân); Ngô Văn Phát (Chính uỷ vùng 5 Hải quân)… và những người “nổi tiếng“ khác: Trần Văn Nhung (nhà toán học đầu đàn- TTBGD); BS Trần Đông A (bàn tay vàng ngành phẫu thuật Việt Nam); Trần Minh Oanh, Nguyễn Văn Tuấn (Chủ tịch tỉnh); Phạm Tất Thắng (Chủ tịch – Bí thư huyện uỷ)… Lễ trồng cây bàng vuông Trường Sa ở quê hương Chuẩn Đô đốc chỉ mang tính biểu tượng. Thông điệp mà Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát gửi gắm; đó là sự tri ân với đất và người.Đất là nơi chôn nhau cắt rốn – quê cha đất tổ của anh. Người là bậc sinh thành, thầy cô giáo cũ, bà con cô bác đã góp phần nuôi dưỡng, giáo dục anh nên người – cho quân đội vị tướng nhân hậu và nghĩa tình. Và còn nữa, những đồng đội của anh; trong đó có cả những người không trở về sau ngày toàn thắng.Cây bàng vuông do quân dân Trường Sa tặng Chuẩn Đô đốc Ngô Văn Phát sẽ xanh tươi, đơm hoa kết trái, bồi thêm sức sống của vùng đất “ địa linh sinh nhân kiệt“ này. Đó là biểu tượng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tất cả chúng ta- những cư dân sống trên dải đất hình chữ S thân yêu.Hải Hậu, cuối tháng 5-2025
Xem thêm
Văn chương và lòng yêu nước
Với bài viết “Cờ Tổ quốc trong trái tim tôi”, nhà thơ Trần Xuân Hóa (Đảng bộ phường Cát Lái) vừa được trao giải Khuyến khích tại cuộc thi viết cảm nhận “Quốc kỳ Tổ quốc Việt Nam”
Xem thêm
Anh Lộc – Tản văn Trần Thế Tuyển
Thật bất ngờ, cách đây hơn 5 năm, tôi ra HN dự lễ kết nạp hội viên Hội Nhà văn VN, anh Lộc đứng cạnh tôi cùng nhận quyết định. Quyết định do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ký. Điều làm tôi bất ngờ là anh Lộc - người đàn anh cùng xóm, lớn hơn tôi vài tuổi lại mang tên Nguyễn Hoàng Hà.
Xem thêm
Má tôi - Ký của Bích Ngân
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Trường Sa - Nơi biển gọi tên Tổ quốc
Ký của Nguyễn Văn Mạnh, Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Ngô Thị Thu Thủy - Người phụ nữ FUJIWA truyền cảm hứng
Bài đăng Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm
Tôi kể chuyện về một người thầy quan trọng trong đời
Về cô giáo Nguyễn Thị Thúy, Hiệu phó trường Tiểu học Nam Cát – Nam Đàn - Nghệ An
Xem thêm
Thăm chiến trường xưa
Ghi chép của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Xem thêm
Cảm xúc tháng Tư
Ký của nhà thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Vu vơ ngày cuối tháng Ba – tản văn của Võ Thị Như Mai
Cuộc đời tôi, dẫu có những ngày lặng lẽ bước qua những con đường cũ, vẫn là một khu vườn đầy ắp màu sắc - có cả xanh tươi của hy vọng, cả vàng úa của hoài niệm, nhưng quan trọng nhất, vẫn còn đó những chồi non kiên trì vươn lên sau mỗi lần đổi thay.
Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm
Lỗi tại Sài Gòn…
Tản văn của La Mai Thi Gia
Xem thêm