TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Cái tôi trữ tình mang nhiều nỗi niềm hoài niệm và những trắc ẩn, suy tư trong thơ Trần Quang Khánh

Cái tôi trữ tình mang nhiều nỗi niềm hoài niệm và những trắc ẩn, suy tư trong thơ Trần Quang Khánh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-28 17:12:13
mail facebook google pos stwis
1620 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Thơ Trần Quang Khánh được viết ra bởi những cảm xúc chân thành của một trái tim nhạy cảm, giàu trắc ẩn với nhiều nỗi trăn trở, suy tư. Có lẽ chính đời binh nghiệp và những thăng trầm của cuộc sống đã cho anh những bài học, sự trải nghiệm về con người, cuộc đời trong một cái nhìn thấu đáo, đầy tính nhân văn.

Núi cứ chồng lên như ngói lợp/ Tuyết rơi phủ trắng cả lưng trời/ Cây im chết cóng trong đêm lạnh/ Chỉ thấy màu xanh áo của anh/ Chiến sĩ biên phòng mang ngọn lửa/ Tình yêu sưởi ấm đất biên cương/ Non sông một dải xanh màu mới/ Đất nước bình yên. Tổ quốc ơi!

Đọc thơ anh, phần nào bạn đọc hiểu được con người đời thường và con người thơ Trần Quang Khánh. Thành công ấy là biểu hiện của quá trình trải nghiệm của một hồn thơ đã chín với những suy nghĩ, quan niệm đúng đắn về thơ và công việc làm thơ - giãi bày tấm lòng thành thật của mình về những điều muốn được ký gửi. Vì thế, trong thơ Trần Quang Khánh không chỉ là nơi ký thác tâm hồn với những suy tư, trăn trở, khát vọng yêu thương mà còn là sự ngợi ca đồng chí, đồng đội - những người đã hy sinh máu xương, công sức cho sự bình yên, đẹp giàu của đất nước này, dân tộc này.

Thơ Trần Quang Khánh viết về nhiều chủ đề, đề tài nhưng có lẽ những vần thơ về chiến tranh, người lính, đồng đội, quê hương, đất nước là những vần thơ để lại nhiều ấn tượng nhất với bạn đọc.

Với Trần Quang Khánh, cảm xúc về thơ luôn thường trực, nhưng vì công việc trong môi trường quân đội nên anh không có thời gian để sáng tác thơ. Mãi cho đến khi về hưu, anh mới có thời gian để thực hiện ước muốn của mình thời trẻ. Và Trần Quang Khánh đã bắt đầu tìm lại những trang nhật ký để viết lại một cách đầy đủ hơn, hoàn thành những vần thơ để tri ân với bạn bè, quê hương, đồng đội… Anh viết bằng chính sự thôi thúc, rung động của trái tim chân thành; viết ra trong nỗi nhớ thương da diết và cả những nỗi niềm day dứt của bản thân.

Sáu mươi tuổi rồi bạn ơi

Nếu sáng ấy bạn không hứng trọn chùm pháo địch

Chúng bắn như điên những tên khát máu

Mắt trợn trừng miệng tả tả như rên

Bốn mươi năm trôi đi xương cốt bạn nơi nào

Nơi khe suối, hốc cây, mõm núi

Bạn đã hóa vào sông vào suối

Chảy hiền hòa cho đất mẹ bình yên

Bốn mươi năm sáng ấy giặc tràn lên

Tiểu đội chúng ta quay quanh đồi Yết Ngựa

Bọn bành trướng lũ quỷ điệp trùng cây cỏ

Lấy thịt đè người hòng nuốt chửng chúng ta

Đạn nổ vang trời bạn vẫn đứng bên tôi

Siết còi súng giặc ào ào gục đổ

Khắp mặt đất rung lắc như rây bột

Khẩu trung liên bay mất đầu nòng

Một loạt cối 82 nổ chùm quanh hào

Nơi bạn đứng chỉ còn trơ chân súng

Thân thể bạn hòa vào bầu trời rực sáng

Tôi căm hờn lao vào lũ quỷ nhe nanh

Bốn mươi năm đi qua hai mươi tuổi xuân xanh

Trong ký ức mọi người bạn vẫn khuôn mặt ấy

Đôi mắt đen hàm răng cười sóng dậy

Tuổi hai mươi lồng ngực căng đầy

Bốn mươi năm bạn vẫn ở nơi này

Nơi biên cương bốn nghìn năm tổ tiên không chớp mắt

Để canh giữ phẩm giá người dân Việt

Ngẩng cao đầu không chịu lạy quỳ ai

(Bốn mươi năm bạn vẫn ở nơi này)

Con người trong thơ Trần Quang Khánh bao giờ cũng trong tư thế ngẩng cao đầu, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng tiến công dù cho mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Nhà thơ đã gọi kẻ thù bằng những từ đúng với bản chất của kẻ bạo tàn. Niềm đau đớn khôn nguôi của những người còn sống hôm nay đó là một số liệt sĩ vẫn chưa tìm được hài cốt.

Bốn mươi năm trôi đi xương cốt bạn nơi nào

Nơi khe suối, hốc cây, mõm núi

Bạn đã hóa vào sông vào suối

Chảy hiền hòa cho đất mẹ bình yên

Sự hy sinh, mất mát của những người đồng chí, đồng đội đã góp phần tô thắm ngọn cờ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì hòa bình thống nhất đất nước.

Bao nhiêu ký ức về đồng đội đã ngã xuống làm cho anh day dứt khôn nguôi. Trần Quang Khánh cảm thấy may mắn khi mình còn được sống, được cống hiến cho đến hôm nay.

Đọc hồi ức đồng đội tuổi đôi mươi/ Thuở lũ giặc tàn sát miền biên giới/ Năm bảy chín đất mẹ đầy nhức nhối/ Những bạn bè còn mất ở nơi đâu/ Chúng ta đi ở thuở ban đầu/ Của tuổi trăng tròn ra trận/ Trong mỗi đứa lung linh lời mẹ dặn/ Đất nước mình phải giữ lấy nghe con/ Chúng ta đi không tính chuyện mất còn/ Lên phía trước cha ông từng đi vậy/ Ta ngã xuống cho màu xanh thắm mãi/ Cho núi sông biển cả muôn đời/ Đất nước mình Tổ quốc Việt Nam ơi/ Bốn nghìn năm không yên bề cuộc sống/ Giặc phương Bắc dập dồn như biển sóng/ Cổ Loa xưa máu đỏ vẫn loang thành/ Chúng rập rình muốn cướp cạn biển xanh/ Cả trời cao chúng muốn ta cúi đầu nô lệ/ Ta chỉ có làm người trong tư thế/ Cáo Bình Ngô trong sáng nghĩa nhân/ Những hồi ức ùa dậy trong tôi/ Ta đã sống những ngày không hổ thẹn/ Bạn và tôi phải đâu là cánh én/ Bởi mùa xuân đã có ở trong đời (Hồi ức đồng đội).

Trần Quang Khánh luôn tìm về đồng đội và những ký ức của chiến tranh, sự ý thức cao độ về chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc.

Ta lặng đứng giữa biên cương Tổ quốc/ Trắng mây trời, trắng cả rừng cây/ Trắng mái tóc đoàn quân đi trong gió/ Đôi mắt đen rọi sáng cả đêm ngày// Những người lính băng mình qua bụi đỏ/ Những hồng cầu giữ nhịp con tim/ Lọc trong suốt trăm triệu lần sắc tố/ Dòng sông sâu, câu hát mãi không chìm// Những nấm mộ vẫn nằm nghe gió hát/ Nơi thung sâu, nơi chót vót mây trời/ Bên vách đá, trong dòng sâu cửa biển/ Đảo khơi xa đáy nước vẫn đầy vơi// Tổ quốc ở trong tim người chiến sĩ/ Người ra đi, cùng người sống ôm ghì/ Dẫu có hóa thành muôn vàn sương khói/ Vẫn quyện vào sông núi chẳng chia ly! (Tổ quốc giữa tim mình).

Viết về quê hương, bản quán Trần Quang Khánh cũng dành những vần thơ đậm chất trữ tình. Là một đứa con nơi xa, xa quê đã ngót nghét gần 1/2 thế kỉ nhưng tận sâu trong tâm khảm vẫn luôn hướng về “cố hương”, dõi theo tất cả những đổi thay của đất mẹ bằng tình cảm sâu nặng và thiêng liêng nhất.

Quê hương nhà thơ, Đại tá Trần Quang Khánh đó là nơi có dòng sông Lam, núi Hồng, nơi có mẹ có cha, gia đình, bạn bè và những ký ức sâu đậm của thuở thiếu thời. Một xứ Nghệ diễm tình với những hình ảnh vừa quen thuộc, gần gũi nhưng cũng có gì đó huyền ảo, lung linh. Nó bảng lảng, giữa hai bờ hư thực, gần đó mà lại xa vời vợi…

Khuôn hồng soi bóng mặt ao

Dòng Lam cuộn sóng gió Lào thổi ngang.

 

Nón em chao chiếc thuyền vàng

Gom đầy cả một mênh mang nước trời.

 

Anh đi ngày ấy xa xôi

Dòng xanh lơ đễnh để trôi... ánh chiều.

 

Núi Hồng ngả bóng đăm chiêu

Cánh đồng xơ xác, cánh diều ngẩn ngơ.

 

Anh về kéo lại vần thơ

Ráng chiều đã úa, trăng mơ đã tàn.

 

Đôi bờ cầu đã bắc sang

Con đò bến cũ mấy hàng cây xanh.

(Lục bát chiều)

Vì thế, nhà thơ lại càng nhớ thương da diết hơn về quê hương, nguồn cội. Trần Quang Khánh càng miên man trong ký ức, càng đi sâu vào cái tôi thì vùng đất xứ Nghệ của anh được mở rộng ra: từ những điều bình dị, quen thuộc đến những sự kiện lịch sử quan trọng được sử sách lưu danh…

Trong bài thơ Hưng Nguyên, Trần Quang Khánh viết về một huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam, nằm ở phía Nam của tỉnh Nghệ An. Huyện Hưng Nguyên ra đời vào năm 1469, khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ hành chính của cả nước. Hưng Nguyên từ xa xưa đã là địa bàn chiến lược về quân sự. Nơi xảy ra nhiều sự kiện lịch sử, gắn liền với những tên tuổi của các vị vua, quan, trí thức nổi tiếng của nước nhà.

Gần sáu trăm năm

Bên dòng sông Lam miệt mài bền bỉ

Lọc dòng xanh biếc xanh

Người với sông tạo nên bãi nên bờ

Nên những cánh đồng, trang sử, câu thơ.

 

Những ngọn núi cũng mang tên Thành, tên Lũy

Quả cảm hiên ngang Dũng Quyết, thành Vinh

Sừng sững nhìn ra biển lớn

Bạn Hồng Sơn gội nước Lam chiều.

 

Những con người không quản máu xương

Giữ trọn lời thề non nước

Núi Nhón còn in dấu chân cha ông thuở trước

Lam Kiều vằng vặc trăng soi.

 

Hưng Nguyên đã bao lần tuyến đầu

Bao lần hậu cứ!

Dấu vết ghi trên khuôn mặt mỗi con người

Niềm tin ánh thép

Miệng nở đóa hoa tươi!

 

Ai đặt tên quê hương Hưng Nguyên

Tôi lật tìm trang sách cũ

Tôi hỏi những ông già râu tóc bạc phơ,

Hỏi nắng bình minh trong giấc mơ

Không tìm được tháng ngày xác tín.

 

Nhưng tôi biết Hưng Nguyên quê hương tôi

từ khi ở trong nôi

Tôi biết là quê hương của tổ tiên, ông bà, cha mẹ

Là mảnh đất của nước Việt ngàn đời

từ khi chưa được đặt tên.

 

Hưng Nguyên qua biết bao cuồng phong, dâu bể

Đạn bom cày nát đồng quê

Đạn bom nhiều hơn hạt lúa

Bão lụt như cơm bữa

Những bữa cơm là củ sắn ,củ khoai

Nuôi những anh hùng, những người sáng tạo

Từ trong bùn lầy

Hai tiếng Hưng Nguyên vẫn đủ đầy.

 

Hưng Nguyên hôm nay khác xưa rồi

Phố phường ngõ xóm xa xôi

Rộn rã tiếng cười

Những nụ cười vút lên tầng cao

Hòa trong tiếng máy

Hòa trong điệu nhạc

Câu hát sông quê xao xuyến mây trời!

Nỗi niềm hoài niệm với quê hương trong thơ Trần Quang Khánh không đơn thuần là sự trở về với những kỷ niệm mà là sự quay về với những truyền thống, cội nguồn, trở về với  những giá trị đạo đức thẩm mỹ mang tính lâu bền, vĩnh cửu.

Viết cho bạn, Trần Quang Khánh cũng dành những vần thơ trữ tình, da diết. Ở đó, là sự yêu kính, trân trọng và cả sự nuối tiếc. Khi nhận được tin người bạn, người đồng đội của mình năm nào vừa rời cõi tạm, Trần Quang Khánh rưng rưng, nấc nghẹn:

4h sáng giật mình tỉnh giấc/ Điện thoại bật lên. Đạo đã đi rồi / Đạo đã bay thật rồi về cõi mộng/ Giấc mơ bay hóa thực ở phương trời!// Ta gặp nhau trong bước hành quân/ Trên trời Tổ quốc những làn mây trắng/ Ta đi trong mùa hoa đào biên cương khói sạm/ Sông Hồng mang sắc đỏ đau thương…// Sáng nay  Đạo bay về cõi mộng/ Bay về nơi quê mẹ thắt lưng ong/ Đất Quảng Bình ngày đêm trông ngóng/ Xếp cánh mơ đời yên lặng ngày đông!

        Vĩnh biệt Trần Quang Đạo - TP HCM, 4h sáng 10/11/2024

(Tiễn đưa Trần Quang Đạo)

Nếu bạn đọc tinh ý sẽ nhận ra trong thơ Trần Quang Khánh bên cạnh cái tôi trữ tình tự hào, ngợi ca, biết ơn, trân trọng sang lắng đọng, suy tư. Những vấn đề sử thi chuyển dần mang màu sắc thế sự, xuất hiện tâm thế đối thoại, chất vấn, hoài nghi.

Bài Đếm là một trong những bài thơ đậm chất thế sự. Đó là nỗi bi ai trước một thực tế đã diễn ra đầy chua chát.

 Người nông dân đếm tiền chưa hết bàn tay

Thi sỹ đếm tiền như đếm sao buổi sáng

KidsTet đếm tiền bằng vi tính màu sáng láng

Trăm triệu Mỹ Kim máu nhuộm đỏ sơn hà!!

Đi qua những năm tháng ở chiến trường, sau đó Trần Quang Khánh cũng có hơn 30 năm đứng trên bục giảng. Chừng ấy thời gian là có biết bao kỷ niệm gắn liền với nghề dạy học. Nhà thơ sâu sắc nhận ra sự cao quý của nghề và cả những điều kiện cần phải tuân thủ, những thứ nên tránh. Người thầy phải không ngừng rèn luyện, vun bồi cả kiến thức và nhân cách đạo đức, lối sống. Bởi nghề dạy học là nghề đặc biệt quan trọng, nghề đạo tạo ra con người, đào tạo ra cả một thế hệ tương lai cho đất nước.

Ta có thể ảo với ta suốt cả cuộc đời/ Ảo để sống với nỗi niềm khát vọng / Nuôi ngọn lửa đời trong tim không tắt ngấm/ Vật vã ngày đông truyền lửa yêu thương.// Nhưng không thể ảo trước con người lương thiện/ Những khuôn mặt ngây thơ khao khát đến trường/ Với người mẹ, người cha phơi mình trong nắng, bão/ Vun mầm non để ruộng rẫy nên hương.// 30 năm miệt mài trên bục giảng;/ Những năm tháng xa xôi khói lửa chiến trường/ Không thể ảo với quê hương, con đường ta bước/ Với dòng sông, biển đảo yêu thương.// Thà để bị vùi trong khói bụi/ Trong lò nung triệu độ trời cao / Nhưng không chịu rạp mình thành cỏ dại/ Để mong đời ban tặng chút xôn xao.

Bài thơ cho thấy rõ nhận thức, bản lĩnh, cốt cách của Trần Quang Khánh, một trí thức mẫn cảm, ý thức sâu sắc trách nhiệm công dân của mình.

Vốn là người từng trải, tinh tế nên Trần Quang Khánh nhìn đời trong sự linh ứng, nhạy cảm riêng.

Ta giật mình mùa thu lại đến/ Chiếc lá vàng tiễn một mảnh thu rơi/ Dòng nước biếc lọc bầu trời xanh biếc/ Có lọc được hồn ta trở lại thuở yêu đời!// Ôi cái thuở ngập tràn tình thương mến/ Mất mát đau thương không xóa nổi ánh mắt cười/ Ta nắm tay nhau giữa dòng xoáy lũ/ Bom đạn thét gào- Sông vẫn hát thương yêu!// Tiếng hát thành sợi chỉ nối đường đi/ Nối bền chặt một tình yêu tươi mới/ Con đường cứ đi và tình người lại đến/ Một nắm xôi đủ san sẻ những sắc đời! (Sắc đời).

Thơ Trần Quang Khánh đậm chất suy tư, giàu tính triết luận. Đọc thơ anh người đọc nhận ra đó là tiếng thơ của một con người từng trải. Tiếng thơ ấy của Trần Quang Khánh đã nói hộ được tâm trạng, cảm xúc, tiếng lòng của rất nhiều người mà họ không thể diễn đạt được bằng thơ như anh! Vì thế, bạn đọc đồng cảm và yêu thích thơ anh là vì lẽ đó.

Nhà thơ Trần Quang Khánh sinh năm 1959 ở Nghệ An. Ông nhập ngũ từ năm 1978, theo học và tốt nghiệp khoa Ngữ văn của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, sau đó tốt nghiệp trường Sĩ quan và có nhiều năm giảng dạy trong nhiều trường biên phòng cho đến khi về hưu năm 2017. Với những trải nghiệm phong phú của đời lính trong hơn 10 năm là chiến sĩ bộ đội đặc công, 30 năm là chiến sĩ bộ đội biên phòng cùng với tình yêu văn chương của mình; Đại tá, nhà thơ Trần Quang Khánh đã có rất nhiều bài thơ viết về quê hương nguồn cội, viết về chiến tranh, đặc biệt là đề tài về người lính bộ đội biên phòng. Ông đã cho mắt công chúng 2 tập thơ riêng là: Ký ức xanh (2021), Nốt nhạc mùa (2022) và hiện là hội viên Hội Nhà văn TPHCM...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm