TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Cái tôi trữ tình mang nhiều nỗi niềm hoài niệm và những trắc ẩn, suy tư trong thơ Trần Quang Khánh

Cái tôi trữ tình mang nhiều nỗi niềm hoài niệm và những trắc ẩn, suy tư trong thơ Trần Quang Khánh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-28 17:12:13
mail facebook google pos stwis
1383 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Thơ Trần Quang Khánh được viết ra bởi những cảm xúc chân thành của một trái tim nhạy cảm, giàu trắc ẩn với nhiều nỗi trăn trở, suy tư. Có lẽ chính đời binh nghiệp và những thăng trầm của cuộc sống đã cho anh những bài học, sự trải nghiệm về con người, cuộc đời trong một cái nhìn thấu đáo, đầy tính nhân văn.

Núi cứ chồng lên như ngói lợp/ Tuyết rơi phủ trắng cả lưng trời/ Cây im chết cóng trong đêm lạnh/ Chỉ thấy màu xanh áo của anh/ Chiến sĩ biên phòng mang ngọn lửa/ Tình yêu sưởi ấm đất biên cương/ Non sông một dải xanh màu mới/ Đất nước bình yên. Tổ quốc ơi!

Đọc thơ anh, phần nào bạn đọc hiểu được con người đời thường và con người thơ Trần Quang Khánh. Thành công ấy là biểu hiện của quá trình trải nghiệm của một hồn thơ đã chín với những suy nghĩ, quan niệm đúng đắn về thơ và công việc làm thơ - giãi bày tấm lòng thành thật của mình về những điều muốn được ký gửi. Vì thế, trong thơ Trần Quang Khánh không chỉ là nơi ký thác tâm hồn với những suy tư, trăn trở, khát vọng yêu thương mà còn là sự ngợi ca đồng chí, đồng đội - những người đã hy sinh máu xương, công sức cho sự bình yên, đẹp giàu của đất nước này, dân tộc này.

Thơ Trần Quang Khánh viết về nhiều chủ đề, đề tài nhưng có lẽ những vần thơ về chiến tranh, người lính, đồng đội, quê hương, đất nước là những vần thơ để lại nhiều ấn tượng nhất với bạn đọc.

Với Trần Quang Khánh, cảm xúc về thơ luôn thường trực, nhưng vì công việc trong môi trường quân đội nên anh không có thời gian để sáng tác thơ. Mãi cho đến khi về hưu, anh mới có thời gian để thực hiện ước muốn của mình thời trẻ. Và Trần Quang Khánh đã bắt đầu tìm lại những trang nhật ký để viết lại một cách đầy đủ hơn, hoàn thành những vần thơ để tri ân với bạn bè, quê hương, đồng đội… Anh viết bằng chính sự thôi thúc, rung động của trái tim chân thành; viết ra trong nỗi nhớ thương da diết và cả những nỗi niềm day dứt của bản thân.

Sáu mươi tuổi rồi bạn ơi

Nếu sáng ấy bạn không hứng trọn chùm pháo địch

Chúng bắn như điên những tên khát máu

Mắt trợn trừng miệng tả tả như rên

Bốn mươi năm trôi đi xương cốt bạn nơi nào

Nơi khe suối, hốc cây, mõm núi

Bạn đã hóa vào sông vào suối

Chảy hiền hòa cho đất mẹ bình yên

Bốn mươi năm sáng ấy giặc tràn lên

Tiểu đội chúng ta quay quanh đồi Yết Ngựa

Bọn bành trướng lũ quỷ điệp trùng cây cỏ

Lấy thịt đè người hòng nuốt chửng chúng ta

Đạn nổ vang trời bạn vẫn đứng bên tôi

Siết còi súng giặc ào ào gục đổ

Khắp mặt đất rung lắc như rây bột

Khẩu trung liên bay mất đầu nòng

Một loạt cối 82 nổ chùm quanh hào

Nơi bạn đứng chỉ còn trơ chân súng

Thân thể bạn hòa vào bầu trời rực sáng

Tôi căm hờn lao vào lũ quỷ nhe nanh

Bốn mươi năm đi qua hai mươi tuổi xuân xanh

Trong ký ức mọi người bạn vẫn khuôn mặt ấy

Đôi mắt đen hàm răng cười sóng dậy

Tuổi hai mươi lồng ngực căng đầy

Bốn mươi năm bạn vẫn ở nơi này

Nơi biên cương bốn nghìn năm tổ tiên không chớp mắt

Để canh giữ phẩm giá người dân Việt

Ngẩng cao đầu không chịu lạy quỳ ai

(Bốn mươi năm bạn vẫn ở nơi này)

Con người trong thơ Trần Quang Khánh bao giờ cũng trong tư thế ngẩng cao đầu, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng tiến công dù cho mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Nhà thơ đã gọi kẻ thù bằng những từ đúng với bản chất của kẻ bạo tàn. Niềm đau đớn khôn nguôi của những người còn sống hôm nay đó là một số liệt sĩ vẫn chưa tìm được hài cốt.

Bốn mươi năm trôi đi xương cốt bạn nơi nào

Nơi khe suối, hốc cây, mõm núi

Bạn đã hóa vào sông vào suối

Chảy hiền hòa cho đất mẹ bình yên

Sự hy sinh, mất mát của những người đồng chí, đồng đội đã góp phần tô thắm ngọn cờ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì hòa bình thống nhất đất nước.

Bao nhiêu ký ức về đồng đội đã ngã xuống làm cho anh day dứt khôn nguôi. Trần Quang Khánh cảm thấy may mắn khi mình còn được sống, được cống hiến cho đến hôm nay.

Đọc hồi ức đồng đội tuổi đôi mươi/ Thuở lũ giặc tàn sát miền biên giới/ Năm bảy chín đất mẹ đầy nhức nhối/ Những bạn bè còn mất ở nơi đâu/ Chúng ta đi ở thuở ban đầu/ Của tuổi trăng tròn ra trận/ Trong mỗi đứa lung linh lời mẹ dặn/ Đất nước mình phải giữ lấy nghe con/ Chúng ta đi không tính chuyện mất còn/ Lên phía trước cha ông từng đi vậy/ Ta ngã xuống cho màu xanh thắm mãi/ Cho núi sông biển cả muôn đời/ Đất nước mình Tổ quốc Việt Nam ơi/ Bốn nghìn năm không yên bề cuộc sống/ Giặc phương Bắc dập dồn như biển sóng/ Cổ Loa xưa máu đỏ vẫn loang thành/ Chúng rập rình muốn cướp cạn biển xanh/ Cả trời cao chúng muốn ta cúi đầu nô lệ/ Ta chỉ có làm người trong tư thế/ Cáo Bình Ngô trong sáng nghĩa nhân/ Những hồi ức ùa dậy trong tôi/ Ta đã sống những ngày không hổ thẹn/ Bạn và tôi phải đâu là cánh én/ Bởi mùa xuân đã có ở trong đời (Hồi ức đồng đội).

Trần Quang Khánh luôn tìm về đồng đội và những ký ức của chiến tranh, sự ý thức cao độ về chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc.

Ta lặng đứng giữa biên cương Tổ quốc/ Trắng mây trời, trắng cả rừng cây/ Trắng mái tóc đoàn quân đi trong gió/ Đôi mắt đen rọi sáng cả đêm ngày// Những người lính băng mình qua bụi đỏ/ Những hồng cầu giữ nhịp con tim/ Lọc trong suốt trăm triệu lần sắc tố/ Dòng sông sâu, câu hát mãi không chìm// Những nấm mộ vẫn nằm nghe gió hát/ Nơi thung sâu, nơi chót vót mây trời/ Bên vách đá, trong dòng sâu cửa biển/ Đảo khơi xa đáy nước vẫn đầy vơi// Tổ quốc ở trong tim người chiến sĩ/ Người ra đi, cùng người sống ôm ghì/ Dẫu có hóa thành muôn vàn sương khói/ Vẫn quyện vào sông núi chẳng chia ly! (Tổ quốc giữa tim mình).

Viết về quê hương, bản quán Trần Quang Khánh cũng dành những vần thơ đậm chất trữ tình. Là một đứa con nơi xa, xa quê đã ngót nghét gần 1/2 thế kỉ nhưng tận sâu trong tâm khảm vẫn luôn hướng về “cố hương”, dõi theo tất cả những đổi thay của đất mẹ bằng tình cảm sâu nặng và thiêng liêng nhất.

Quê hương nhà thơ, Đại tá Trần Quang Khánh đó là nơi có dòng sông Lam, núi Hồng, nơi có mẹ có cha, gia đình, bạn bè và những ký ức sâu đậm của thuở thiếu thời. Một xứ Nghệ diễm tình với những hình ảnh vừa quen thuộc, gần gũi nhưng cũng có gì đó huyền ảo, lung linh. Nó bảng lảng, giữa hai bờ hư thực, gần đó mà lại xa vời vợi…

Khuôn hồng soi bóng mặt ao

Dòng Lam cuộn sóng gió Lào thổi ngang.

 

Nón em chao chiếc thuyền vàng

Gom đầy cả một mênh mang nước trời.

 

Anh đi ngày ấy xa xôi

Dòng xanh lơ đễnh để trôi... ánh chiều.

 

Núi Hồng ngả bóng đăm chiêu

Cánh đồng xơ xác, cánh diều ngẩn ngơ.

 

Anh về kéo lại vần thơ

Ráng chiều đã úa, trăng mơ đã tàn.

 

Đôi bờ cầu đã bắc sang

Con đò bến cũ mấy hàng cây xanh.

(Lục bát chiều)

Vì thế, nhà thơ lại càng nhớ thương da diết hơn về quê hương, nguồn cội. Trần Quang Khánh càng miên man trong ký ức, càng đi sâu vào cái tôi thì vùng đất xứ Nghệ của anh được mở rộng ra: từ những điều bình dị, quen thuộc đến những sự kiện lịch sử quan trọng được sử sách lưu danh…

Trong bài thơ Hưng Nguyên, Trần Quang Khánh viết về một huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam, nằm ở phía Nam của tỉnh Nghệ An. Huyện Hưng Nguyên ra đời vào năm 1469, khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ hành chính của cả nước. Hưng Nguyên từ xa xưa đã là địa bàn chiến lược về quân sự. Nơi xảy ra nhiều sự kiện lịch sử, gắn liền với những tên tuổi của các vị vua, quan, trí thức nổi tiếng của nước nhà.

Gần sáu trăm năm

Bên dòng sông Lam miệt mài bền bỉ

Lọc dòng xanh biếc xanh

Người với sông tạo nên bãi nên bờ

Nên những cánh đồng, trang sử, câu thơ.

 

Những ngọn núi cũng mang tên Thành, tên Lũy

Quả cảm hiên ngang Dũng Quyết, thành Vinh

Sừng sững nhìn ra biển lớn

Bạn Hồng Sơn gội nước Lam chiều.

 

Những con người không quản máu xương

Giữ trọn lời thề non nước

Núi Nhón còn in dấu chân cha ông thuở trước

Lam Kiều vằng vặc trăng soi.

 

Hưng Nguyên đã bao lần tuyến đầu

Bao lần hậu cứ!

Dấu vết ghi trên khuôn mặt mỗi con người

Niềm tin ánh thép

Miệng nở đóa hoa tươi!

 

Ai đặt tên quê hương Hưng Nguyên

Tôi lật tìm trang sách cũ

Tôi hỏi những ông già râu tóc bạc phơ,

Hỏi nắng bình minh trong giấc mơ

Không tìm được tháng ngày xác tín.

 

Nhưng tôi biết Hưng Nguyên quê hương tôi

từ khi ở trong nôi

Tôi biết là quê hương của tổ tiên, ông bà, cha mẹ

Là mảnh đất của nước Việt ngàn đời

từ khi chưa được đặt tên.

 

Hưng Nguyên qua biết bao cuồng phong, dâu bể

Đạn bom cày nát đồng quê

Đạn bom nhiều hơn hạt lúa

Bão lụt như cơm bữa

Những bữa cơm là củ sắn ,củ khoai

Nuôi những anh hùng, những người sáng tạo

Từ trong bùn lầy

Hai tiếng Hưng Nguyên vẫn đủ đầy.

 

Hưng Nguyên hôm nay khác xưa rồi

Phố phường ngõ xóm xa xôi

Rộn rã tiếng cười

Những nụ cười vút lên tầng cao

Hòa trong tiếng máy

Hòa trong điệu nhạc

Câu hát sông quê xao xuyến mây trời!

Nỗi niềm hoài niệm với quê hương trong thơ Trần Quang Khánh không đơn thuần là sự trở về với những kỷ niệm mà là sự quay về với những truyền thống, cội nguồn, trở về với  những giá trị đạo đức thẩm mỹ mang tính lâu bền, vĩnh cửu.

Viết cho bạn, Trần Quang Khánh cũng dành những vần thơ trữ tình, da diết. Ở đó, là sự yêu kính, trân trọng và cả sự nuối tiếc. Khi nhận được tin người bạn, người đồng đội của mình năm nào vừa rời cõi tạm, Trần Quang Khánh rưng rưng, nấc nghẹn:

4h sáng giật mình tỉnh giấc/ Điện thoại bật lên. Đạo đã đi rồi / Đạo đã bay thật rồi về cõi mộng/ Giấc mơ bay hóa thực ở phương trời!// Ta gặp nhau trong bước hành quân/ Trên trời Tổ quốc những làn mây trắng/ Ta đi trong mùa hoa đào biên cương khói sạm/ Sông Hồng mang sắc đỏ đau thương…// Sáng nay  Đạo bay về cõi mộng/ Bay về nơi quê mẹ thắt lưng ong/ Đất Quảng Bình ngày đêm trông ngóng/ Xếp cánh mơ đời yên lặng ngày đông!

        Vĩnh biệt Trần Quang Đạo - TP HCM, 4h sáng 10/11/2024

(Tiễn đưa Trần Quang Đạo)

Nếu bạn đọc tinh ý sẽ nhận ra trong thơ Trần Quang Khánh bên cạnh cái tôi trữ tình tự hào, ngợi ca, biết ơn, trân trọng sang lắng đọng, suy tư. Những vấn đề sử thi chuyển dần mang màu sắc thế sự, xuất hiện tâm thế đối thoại, chất vấn, hoài nghi.

Bài Đếm là một trong những bài thơ đậm chất thế sự. Đó là nỗi bi ai trước một thực tế đã diễn ra đầy chua chát.

 Người nông dân đếm tiền chưa hết bàn tay

Thi sỹ đếm tiền như đếm sao buổi sáng

KidsTet đếm tiền bằng vi tính màu sáng láng

Trăm triệu Mỹ Kim máu nhuộm đỏ sơn hà!!

Đi qua những năm tháng ở chiến trường, sau đó Trần Quang Khánh cũng có hơn 30 năm đứng trên bục giảng. Chừng ấy thời gian là có biết bao kỷ niệm gắn liền với nghề dạy học. Nhà thơ sâu sắc nhận ra sự cao quý của nghề và cả những điều kiện cần phải tuân thủ, những thứ nên tránh. Người thầy phải không ngừng rèn luyện, vun bồi cả kiến thức và nhân cách đạo đức, lối sống. Bởi nghề dạy học là nghề đặc biệt quan trọng, nghề đạo tạo ra con người, đào tạo ra cả một thế hệ tương lai cho đất nước.

Ta có thể ảo với ta suốt cả cuộc đời/ Ảo để sống với nỗi niềm khát vọng / Nuôi ngọn lửa đời trong tim không tắt ngấm/ Vật vã ngày đông truyền lửa yêu thương.// Nhưng không thể ảo trước con người lương thiện/ Những khuôn mặt ngây thơ khao khát đến trường/ Với người mẹ, người cha phơi mình trong nắng, bão/ Vun mầm non để ruộng rẫy nên hương.// 30 năm miệt mài trên bục giảng;/ Những năm tháng xa xôi khói lửa chiến trường/ Không thể ảo với quê hương, con đường ta bước/ Với dòng sông, biển đảo yêu thương.// Thà để bị vùi trong khói bụi/ Trong lò nung triệu độ trời cao / Nhưng không chịu rạp mình thành cỏ dại/ Để mong đời ban tặng chút xôn xao.

Bài thơ cho thấy rõ nhận thức, bản lĩnh, cốt cách của Trần Quang Khánh, một trí thức mẫn cảm, ý thức sâu sắc trách nhiệm công dân của mình.

Vốn là người từng trải, tinh tế nên Trần Quang Khánh nhìn đời trong sự linh ứng, nhạy cảm riêng.

Ta giật mình mùa thu lại đến/ Chiếc lá vàng tiễn một mảnh thu rơi/ Dòng nước biếc lọc bầu trời xanh biếc/ Có lọc được hồn ta trở lại thuở yêu đời!// Ôi cái thuở ngập tràn tình thương mến/ Mất mát đau thương không xóa nổi ánh mắt cười/ Ta nắm tay nhau giữa dòng xoáy lũ/ Bom đạn thét gào- Sông vẫn hát thương yêu!// Tiếng hát thành sợi chỉ nối đường đi/ Nối bền chặt một tình yêu tươi mới/ Con đường cứ đi và tình người lại đến/ Một nắm xôi đủ san sẻ những sắc đời! (Sắc đời).

Thơ Trần Quang Khánh đậm chất suy tư, giàu tính triết luận. Đọc thơ anh người đọc nhận ra đó là tiếng thơ của một con người từng trải. Tiếng thơ ấy của Trần Quang Khánh đã nói hộ được tâm trạng, cảm xúc, tiếng lòng của rất nhiều người mà họ không thể diễn đạt được bằng thơ như anh! Vì thế, bạn đọc đồng cảm và yêu thích thơ anh là vì lẽ đó.

Nhà thơ Trần Quang Khánh sinh năm 1959 ở Nghệ An. Ông nhập ngũ từ năm 1978, theo học và tốt nghiệp khoa Ngữ văn của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, sau đó tốt nghiệp trường Sĩ quan và có nhiều năm giảng dạy trong nhiều trường biên phòng cho đến khi về hưu năm 2017. Với những trải nghiệm phong phú của đời lính trong hơn 10 năm là chiến sĩ bộ đội đặc công, 30 năm là chiến sĩ bộ đội biên phòng cùng với tình yêu văn chương của mình; Đại tá, nhà thơ Trần Quang Khánh đã có rất nhiều bài thơ viết về quê hương nguồn cội, viết về chiến tranh, đặc biệt là đề tài về người lính bộ đội biên phòng. Ông đã cho mắt công chúng 2 tập thơ riêng là: Ký ức xanh (2021), Nốt nhạc mùa (2022) và hiện là hội viên Hội Nhà văn TPHCM...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm