TIN TỨC

Cảm thức thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-06-17 09:32:32
mail facebook google pos stwis
1695 lượt xem

NGUYỄN THỊ LAN
(Nguồn: Nhà văn & Cuộc sống số 14, tháng 5-6/2023)

Thế giới thơ của Lê Thành Nghị đầy ắp những hình ảnh, sắc màu, âm thanh, mùi vị của thiên nhiên. Anh đã dành cho thiên nhiên một vị trí trang trọng, cao quý. Từ những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn hoành tráng, những bức tranh toàn bích của núi cao, biển rộng, sông dài, mây núi trùng điệp, bầu trời mênh mông, mặt hồ êm đềm, mưa, gió, trăng, sao, cỏ cây ngút ngàn mang đậm màu sắc cổ điển đến những bức tranh bình dị, nhỏ bé, xinh xắn, tiêu sơ của vòm lá, nhành hoa, bờ ngô non, giọt sương, vệt nắng…tất cả đều đi vào thơ Lê Thành Nghị một cách tự nhiên.

Ở đó luôn có sự tương thông, tương hợp của hai kiểu không gian (vĩ mô và vi mô): một bông hoa mai nhỏ xíu giữa cảnh đất trời bao la, một đám lục bình trôi giạt trên sông Tiền Giang xa rộng… Từ những loài hoa lộng lẫy, kiêu sa, đài các đến những loài hoa bình dị, dân dã, quê kiểng đều có trong thơ: hoa hoàng lan, hoa loa kèn, hoa hồng, hoa đại, hoa sen, hoa mai, hoa muồng vàng, hoa sữa; đến hoa xoan, hoa gạo, hoa mười giờ, hoa trạng nguyên, hoa lau, hoa mua, hoa lan rừng và cả hoa cỏ, hoa xương rồng…Thiên nhiên trong thơ anh trang nhã, thanh sạch, trầm tĩnh…, mang theo những mã thông điệp tình cảm riêng của tác giả.

Trong bốn mùa, mùa xuân là một trong hai mùa được viết nhiều nhất. Với anh, mùa xuân được coi là mùa của sự sống, mùa của cảm xúc thăng hoa, mùa của tình yêu và mùa của những khởi đầu tốt đẹp. Mùa xuân trong thơ Lê Thành Nghị mang hương vị riêng, làm nên nét xuân dịu dàng, nhẹ nhàng, đậm hơi thở của mùa xuân vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Đây là làn mưa bụi đầu tiên (đặc sản của xứ bắc) khi mùa xuân về: Những chiếc lá trong bụi mù/ Run rẩy với những màn mưa đầu tiên giăng trên phố nhỏ/ Ngàn hạt ấm li ti quá đỗi dịu dàng/ Như bàn tay ai lướt trên phím đàn. Hoặc: Mai mốt em về đi chợ Huyện/ Mưa bay như bụi phiên đông người (Chợ Huyện)… Mưa nhưng không phải là mưa mà là bụi mù, hạt nhỏ li ti. Mưa xuân đấy, dịu dàng, nhẹ nhàng, thanh tao, tinh khiết làm nên vẻ đẹp mơ màng, sương khói, như thực, như hư của tiết xuân đồng bằng Bắc Bộ.

Khi hạt mưa xuân giăng mắc khắp cõi nhân gian thì muôn loài cỏ cây, hoa lá như được chiếc đũa thần chạm vào, chợt tỉnh giấc sau một mùa đông lạnh giá. Bắt đầu là: Lá thì mướt quá. Rồi nắng: Chùm nắng non tưởng trái chín đầu cành. Còn đây là tháng ba, khi mùa xuân đã “chín”: Lối nhỏ tháng ba mây mù giăng/ Gió lạnh cuối mùa thôi cũng hết/ Cuối chân mây nắng về đột ngột/ Gió trên đường cũng ngơ ngác xanh. “Gió ngơ ngác xanh”  nói lên cái ngỡ ngàng của những ngày xuân đầu tiên. Sau thoảng gió ngỡ ngàng ấy là vũ khúc của mùa xuân: Ngọn gió xuân thổi mềm trên dặm cỏ/ Đã bắt đầu những đọt nắng ngời lên. Và sau “đọt” nắng ấy là hoa, trăm hoa đua nở: Tháng giêng bận bịu hoa…/ Đất Nghèn tháng ba hoa ven sông ven núi. Muôn sắc hoa bước vào thơ: có thể là bông hoa cỏ nhỏ xíu vô danh lòai hoa lạ cứ nhìn cha trong cỏ (Mùa xuân của cha và con), bông mai núi xinh xắn, thanh tao, tinh khiết “vừa thức” trong mưa bụi bay mờ sông Nậm Rốm; có thể là  Hoa xoan trôi trắng tím cả đôi bờ; bông loa kèn xanh gầy, mảnh mai và lặng lẽ.

 Đến mùa hạ, thơ anh tràn ngập sắc màu của cây, của nắng. Trong bài Nhịp thời gian, anh “định vị” với người đọc về những ngày cuối xuân đầu hạ. Mỗi câu thơ là một tiểu cảnh, một sắc màu, một âm thanh của lá, của hoa, của hạt sương, của nắng và tiếng chim: Tháng tư lối nhỏ hoa rụng đầy/ Tháng tư tiếng chim dài sau lá/ Tháng tư hạt sương run ngọn cỏ/ Tháng tư vạt nắng vàng rơi!. Một tháng tư náo nức của mùa hè Hà Nội. Còn mùa hè quê hương với những kỷ niệm của tuổi thơ: Mùa hè đang rung những quả chuông màu lam/ Em nhớ không mùa sim Hồng Lĩnh?.../Rặng bàng còn cất tiếng ve/ Đồng Hòn Mô có còn nghe sáo diều (Về quê). Mùa hè ở Matxcova lộng lẫy sắc màu: Cây ngày mai sẽ xanh kín lá/ Thảm cỏ nhung lộng lẫy nắng bên đường (Matxcova mùa tuyết đang tan). Và cuối mùa hè: Phương bắc mây mù chậm trôi, chậm trôi…/ Cốc rượu nồng nàn trong vườn nhẹ gió/ Hoa cỏ ngủ yên trên từng lối nhỏ…/Mây trắng vô biên, tráng lệ đền đài (Buổi chiều ở Edinburgh)…

Sang thu, vạn vật đã đến lúc thu mình. Những gì xanh tươi đã đến lúc tàn phai, như một báo hiệu qua câu chữ: sen tàn dẫn đến mùa thu. Nhưng chính sự phai nhạt này làm mùa thu như trở nên quyến rũ trong luân chuyển, trong sang mùa, trong mất mát, trong úa tàn: Mùa hạ đang xa/ Tàn trong nắng muộn/ Vàng trong yên lặng…/ Nhẹ nhàng chiếc lá bàng thay/ Kéo theo một vạt lửa bay xuống hồ (Sang thu); Rồi: Đêm qua một chiếc ngô đồng xuống/ Gió đẫm Tây Hồ, sương đẫm thu; Chạm tuổi bảy mươi/ Là chạm vạt cúc vàng bên vầng trăng lặn (Satna 100); Bâng quơ nhớ gió đưa mùi ổi chin/ Mây tần ngần trắng muốt phía sau cây (Mùa thu năm Bính Tuất)…Tất cả là tín hiệu sang thu, chuyển giao yên lặng… Cái nhẹ của mùa thu được lượng hóa: Tháng mười nhẹ như cầm tay được/ Áo dài bay cây đứng ngẩn bên đường. Cái nhẹ của mùa thu như tấm voan choàng lên cả đất trời: Trời vô biên thiên thanh/ Mây quá chừng lặng lẽ/ Mang cả dáng trăng non/ Áo dài về đâu thế?. Cái nhẹ ấy có trong cánh chim: Đàn chim sải cánh cùng cao rộng; trong áng mây: mây tần ngần trắng muốt; trong cỏ lặng bờ dài, trong Cây đứng sầu đông, sông nhớ mưa; trong hoa bay tím ngõ; trong mùi ổi chínnước hồ đầy…Rồi hoa: Mùa thu đến rồi đi theo vạt hoa vàng.../Cúc vàng trong yên lặng…Cảnh thu gợi lên man mác buồn bao trùm cả không gian và thấm vào tâm tư: Ngày thăm thẳm/ Trời xanh thăm thẳm/ Mắt người buồn thăm thẳm.../ Gió lạnh thổi từ năm ngoái đến/ Tiếng chuông tê buốt suốt mùa thu.  

Nói đến mùa đông là phải nói đến cái lạnh se thắt của gió mùa nhất là trong những đêm đông. Trong bài Mai gầy, Lê Thành Nghị có những câu thơ đầy biểu cảm: Đêm mùa đông gió cuốn sông dài/ Những vì sao gọi nhau về thăm thẳm/ Nghe bốn phía ngút ngàn gió lạnh/ Tiếng vạc rơi tê buốt trước hiên nhà. Quả là lạnh. Câu nào cũng “lạnh”. Nhưng nhiều khi không phải nhắc đến chữ “lạnh”, “rét”, “gió bấc” mà vẫn thấy rõ “mùa đông”: Một nhánh mai gầy/ Lá đi theo gió không gửi một lời/ Mình cây ở lại/ Chờ giọt sương mai… Anh cảm nhận mùa đông qua sắc lá: Mùa đông cứ tắt dần trên lá đỏ.../ Ngày cuối chạp/ Cây bàng lá đỏ đứng yên trong giá rét/ Phố phường mưa bụi bay. Hoặc: Những chiếc lá mùa đông vừa trút xuống/ Khúc không lời cây nói với thời gian... Và dường như cả đất trời đang “thức dậy”: Say điều gì hoa lau ngả nghiêng rung/ Chờ điều gì hoa mua tím cuối đông/ Rừng thức dậy nghe rừng đang trút lá. Và đâu đó trên bến sông quê đẹp bình dị mà lộng lẫy: Bát ngát con đường quê cuối chạp/ Lòng theo vạt nước chuyển ra giêng/ Bốn bề thơm thảo giàn gấc chín/ Hoa cải vàng theo đến mép sông. Có thể nhận ra màu sắc tươi tắn không hề xám xịt, tàn tạ vẫn thường thấy của mùa đông. Cho dù có khi là thời điểm “cuối mùa đông” (Rừng tràm cuối mùa đông), khoảnh khắc giao thời của đất trời, ẩn chứa sự sinh sôi, rạo rực nhìn rừng tràm thay lá/ Máu lên mười đầu ngón tay (Rừng tràm cuối mùa đông), ẩn chứa vẻ đẹp rất riêng.

Thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị thật giàu màu sắc, một thiên nhiên trang nhã, lộng lẫy, ít gam màu chói gắt. Lê Thành Nghị thường nói bằng màu sắc. Nhiều nhất là sắc tím. Màu tím dường như có ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tuyển tập có 192 bài thì ít nhất có gần 50 câu thơ có sự xuất hiện của màu tím. Màu tím trong hoa (hoa xoan, hoa lục bình, hoa cúc dại, hoa thạch thảo, hoa mua, hoa tuy líp…), trong chiều tím, núi tím lam, tà áo tím, hoàng hôn tím…Đó là những sắc màu của thế giới tự nhiên. Nhưng đó cũng là sắc tím của tâm trạng: Thao thiết nhớ một thời nông nổi tím/ Nếu có phải đợi chờ đến tím/ Ta sẽ chờ tàn lụi cả rừng gai!; Đã nói rằng yêu là mềm cả đá/ Đã nói rằng thương là tím cả sông…;Cả rừng hoa hái chờ em ngày ấy/ Biết bao mùa còn trôi tím trong anh; Trận mưa chiều làm lá rụng đầy sân/ Người đi vắng hoa hình như tím ngắt; Chuông đồng hồ gõ tím ngát hoàng hôn… Những sắc độ của màu tím không còn là màu của thế giới tự nhiên nữa mà trở thành màu của cảm xúc: nông nổi tím, đợi chờ đến tím, tím cả sông, trôi tím, tím ngắt, tím ngát… thành biểu tượng cho nỗi nhớ, ký ức, hoài niệm, sự chờ đợi, lòng thủy chung.

Thơ Lê Thành Nghị giàu biểu tượng. Trước hết là cỏ. Mật độ cỏ rất dày: cỏ trong vườn, cỏ bên sông, cỏ dọc bờ suối, cỏ lan mặt đất, cỏ khắp mọi miền quê, cỏ mênh mông ở Miền cỏ dại…Cỏ vô hạn với đời người hữu hạn: Kìa em! Đừng giẫm chân lên cỏ…; Vô hạn những triền sông, ngút ngát những chân đê/ Một nền xanh dưới chân mây…là cỏ; Nơi mẹ ta nằm lút bờ cỏ may…vv. Cỏ đã tạo nên điệp khúc tâm trạng, tình người chứa chan: những thương nhớ, những hoài niệm, những chiêm nghiệm. Nhà phê bình Cao Ngọc Thắng trong một bài viết của mình thật có lý khi cho rằng: “Chọn cỏ và đưa cỏ vào thơ, Lê Thành Nghị như đang tìm kiếm cái “vô hạn” trong đó, vừa khiêm nhường vừa kiên cường giữa mênh mông trời đất”*. Anh khẳng định: Có những câu thơ dù thiêu cũng không thể cháy/ Như thể lửa càng to, thảm cỏ mọc càng dầy (Thi sỹ). Những câu thơ về “cỏ” của anh đằm sâu nghĩ suy với nhiều tầng nghĩa, hiện lên vẻ đẹp lung linh, biến ảo. Điệp khúc “cỏ” như một hình tượng mang tính biểu tượng trong thơ Lê Thành Nghị.

Trong các loài hoa, anh viết nhiều về sen. Bên hồ sen 1, 2, 3 là một liên khúc về hoa sen “vừa bay bổng, vừa sâu lắng, vừa trùng điệp mênh mang”. Với sen, nhà thơ không chỉ thấy tác dụng của sen trong đời sống con người mà còn vì những “phẩm chất” mà con người phải vươn tới. Sen trong sạch, cao quý, tao nhã, vừa có sắc, có hương: Sen vẫn ngào ngạt hương/ Mặc kệ bùn luôn tìm cớ để vấy bẩn. Sen bay bổng, lãng mạn, vượt lên cái tầm thường: vô vàn những màu hồng, màu trắng đang muốn bay lên/ Những cánh mỏng như thiên thần mềm mại rung với gió/ Đã xa bùn đất, đã khuất ưu phiền/ Sen còn muốn bay lên cao nữa!.../Rứa mà như đang muốn vượt lên tất cả/ Để đến tận cùng-một hồ sen đang cất cánh bay…

Trong thơ anh có khá nhiều bài về mưa qua những câu thơ lãng mạn, giăng mắc tâm tư, gợi nhớ từ một không gian xa lắc, một thời gian xa vời chất chứa bao kỷ niệm: Tuổi học trò Ôi cơn mưa! Chỉ có thể là mưa như tuổi nhỏ/ Trẻ nhường kia thuở với bạn đến trường; Mối tình đầu Ôi cơn mưa/ Chỉ có thể là cơn mưa kỷ niệm/ Mối tình đầu và những trận mưa đêm; Một thời trẻ măng đi cầm súng Bom dội trong mưa, rừng cháy trong mưa/ Núi cúi mặt để khỏi trào nước mắt. Mưa gợi nhớ đến mẹ: Tôi cũng bao ngày mưa giăng nhớ mẹ/ Nỗi nhớ dâng trên mái phố, mái nhà. Mưa làm liên tưởng đến cha: Ôi hững cơn mưa thối trời, thối đất/ Cha chống gậy lội bùn đi dạy học/ Mưa ướt đầm gió lạnh chéo qua vai…Đó còn là những cơn mưa ấn tượng, găm sâu vào tiềm thức của người thơ mà anh gọi là những hạt buồn đau làm lạnh lùng nhân thế, làm nên những ký ức ướt sũng... như thể đã đi suốt đời anh…

Thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị có sự hòa trộn với cái sâu kín của tâm hồn, không chỉ là những gì anh nhìn thấy mà cả những gì cảm thấy. Anh giãi bày lòng mình qua thiên nhiên, qua lăng kính cảm xúc chủ quan của mình với rất nhiều cung bậc. Ở đó, thiên nhiên nhiều khi không còn là một thực tại khách quan nữa mà là thực tại tâm trạng, là cái cớ để nhà thơ nhận thức, suy tư, như thể hòa nhập với thiên nhiên để thả lỏng tâm tư, tìm sự tự do, thư thái trong tâm hồn: Tôi đã bao lần ngồi trong nắng sớm/ Chẳng chờ đợi gì ngoài một giọng chim/ Tôi đã bao lần trên con đường vắng/ Chẳng chờ đợi gì ngoài khoảnh khắc lặng im/ Tôi đã bao lần trôi trên suối tím/ Chẳng ước ao gì ngoài được trôi êm. Mỗi khi phiền muộn, với tác giả thiên nhiên là nơi di dưỡng tinh thần, là nơi lắng sâu tâm thái, nơi thanh lọc tâm hồn. Tìm đến những khoảnh khắc lặng yên kia, anh nhận ra cái Tĩnh Động của thiên nhiên để trấn tĩnh lòng mình: Chiếc lá nào buông bên cửa sổ/ Chấn động lòng ta đến cạn đêm?. Câu thơ vẽ nên chân dung tinh thần của một người thơ trầm tĩnh, sống nội tâm, nhưng rất tinh tế, nhạy cảm. Đây là hoa hoàng lan: Cuối tháng ba, hoa suốt đêm dài/ Nghe gió thoảng biết cây vườn còn thức. Nói gió để nhắc đến cây vườn. Nói cây vườn để chỉ tâm trạng, một tâm trạng luôn thức, luôn tỉnh, luôn mở trước mọi biến động của thiên nhiên. Còn đây là núi, sỏi đá và mặt trời: Núi cao say đứng, núi thấp say nằm/ Sỏi đá và mặt trời cùng nhòe dưới suối. Và đây là cái vô hình đã trở thành hữu hình trong thơ anh: Mênh mông không lời ngày đi xa lắc/ Như vạc bay hàng một giữa mùa đông…Gắn với thiên nhiên thơ anh thăng hoa. Nhiều câu, nhiều bài mang sắc thái lãng mạn với tứ thơ, với tư tưởng mới lạ phóng khoáng, khí thơ mạnh mẽ: Hình như chim vẫy cánh ngoài vô tận/ Còn ta: bờ lau bạc suốt trăm năm…/Nếu được làm trời xanh, nếu ta được làm trời xanh/ Ngày mai trời xanh sẽ vô biên…Rồi đến một ngày kia khi buộc phải ra đi, anh nguyện: về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng. Vậy là trọn vẹn một “tình yêu” thiết tha, nồng nàn và lãng mạn với đất trời cho đến tận cuối!

Thấm đượm trong từng cảnh sắc là một linh hồn “mang mang thiên cổ”, một tâm thái kín đáo và chừng mực, một tâm thế tự tại mà không hề ảo não, một nỗi buồn dịu nhẹ, lan tỏa từ người viết sang người đọc. Bài Ngẫu hứng sông Tiền, gợi lên mênh mang, xa rộng của sông nước, lênh đênh của kiếp lục bình, bất định của tâm trạng người viết. Nhưng điều đáng nói ở đây không phải là nhà thơ miêu tả hoa lục bình mà biểu hiện những suy cảm, liên tưởng…với những gì thường biến, thường hằng của thiên nhiên: Nào ai nói giùm ta có ghì vĩnh viễn/ Hoa tím được bao nhiêu trước mãi mãi hoang tàn?. Một thoáng buồn trước cái hữu hạn của đời hoa, (cũng để nói người), một nỗi u hoài tha hương khi ý thức được cái hữu hạn trước vô hạn, một thoáng cô liêu nơi đất khách. Cái tình trong những câu thơ da diết mà không bi lụy, thiên nhiên rộng rãi một vệt mờ bờ lút phía chân mây mà không quạnh vắng.

Nhưng cô đơn- cái cô đơn bản thể thì có thật, nó ở trong cây, trong nước, trong bao la: Gió đi đâu cây một mình một bóng/ Sóng giang hồ vỗ đến hạ huyền đêm…/Sông thì rộng- vừa cánh cò chớp trắng/ Một vệt mờ-bờ lút phía chân mây…Cũng như có lần chia tay Nha Trang với những câu thơ thảng thốt: Bao giờ về đi trên con đường ấy/ Biết thế nào là biển nhớ nhung trăng/ Bao giờ về khóc thầm trong nước mặn/ Biết thế nào là biển lạnh Nha Trang/ Bao giờ về, bao giờ về với biển/ Hoa nói đi, hỡi cánh hoa vàng. “Bao giờ về”, hỏi mà không lời đáp, một nỗi buồn xa vắng mênh mông. Bài Chiều tháng bảy qua sông thì câu chữ tê tái: Bốn bề vắng lặng mênh mông bốn bề, với miên man nước chảy vô thường, với Mây bay lạc lối hoa trôi lạc dòng. Tháng bảy là tháng cô hồn, tháng mưa ngâu. Cảnh vật hiu quạnh, lòng người theo đó cũng tê buốt nỗi buồn thế gian. Hình như người viết đang liên tưởng đến chuyến đò cuối cùng đến bờ hư vô: Mai về xếp lại tháng năm/ Ngu ngơ, khôn dại, lỗi lầm, được thua/ Xếp ngày ước, xếp đêm mơ/ Để trôi một chuyến sang bờ hư vô. Bài thơ viết năm 2009, còn sớm để nghĩ đến ngày đó, cho thấy một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm trước thời gian. Trong bài thơ Một mình thì nhà thơ không chỉ buồn mà còn cô đơn đến tận độ: Sông như sông rượu đong đầy/ Chén nâng một mình sao cạn/ Thương nhớ người đi muôn dặm/ Ta với mây bàng hoàng bay. Chỉ có tamây bàng hoàng bay. Một câu thơ gói cả một buổi chiều cô đơn. Bài thơ Tàu về thảo nguyên lại là nỗi buồn ly biệt, nỗi buồn lẻ loi trước xa cách: Trận mưa chiều làm lá rụng đầy sân/ Người đi vắng hoa hình như tím ngắt/ Tôi cũng mất những gì yêu quý nhất/ Chỉ còn nguyên vạt nắng lẻ sau nhà/ Một nửa chân trời theo người ấy đi xa/ Một ngàn ngôi sao cùng trôi về phía ấy/ Nửa chân trời phía người ở lại/ Đêm màu nhung thầm lặng xuống trong vườn.

Nhưng nỗi buồn trong thơ anh là buồn Đẹp, có phải vì nó luôn gắn với thiên nhiên? Đẹp bởi sự vương vấn nhẹ nhàng của một tâm hồn đa cảm. Ở đó ta thấy đủ cả: sự bình yên, sự tĩnh tâm, sự xao động…của những trải nghiệm, chiêm nghiệm và chứng nghiệm của nhà thơ, đặc biệt những lúc chia xa.

Trong thơ Lê Thành Nghị đầy ắp kỷ niệm. Với anh, về với thiên nhiên là về với kỷ niệm, trong đó có những kỷ niệm về quê hương: Hoa đại y nguyên lời ước hẹn/ Trăm năm vẫn rụng trắng sân chùa. Là cố hương: Suối trôi trong tĩnh tại/ Núi động trong dáng thiền/ Nuôi ta lớn lên. Nơi mỗi khi trở về: Ta về ngơ ngẩn cùng tre trúc/ Kìa lối vào mây đến cửa thiền. Nơi đó anh ước ao: về ngược thời gian/ Rẽ vạt cỏ năn/ Làm con cò lội ruộng/ Ta về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng. Nơi đó Không có nỗi nhớ nào xa xót như nhớ miền Trung, bởi vì thiên nhiên miền Trung nên thơ, hùng vĩ nhưng thật sự khắc nghiệt: Miền Trung quê anh cát bay trong sữa mẹ. Nơi đó mưa nắng cũng khác thường: Mưa miền Trung/ Cuốn đi những đồi cát bỏng/ Sạt lở những vách núi cao/ Ngập tràn những dòng sông ngắn. Cho nên “nhớ” về quê hương với anh cũng là sự “xa xót”….

Thơ Lê Thành Nghị là thơ của một cây bút tài hoa, có học thức, có sức lan tỏa. Có thể trích dẫn nhiều câu thơ hay và đẹp về mọi khía cạnh trong đó có những câu thơ về thiên nhiên rất đặc trưng của thi sỹ. Nhiều câu thơ rất ám ảnh. Chẳng hạn: Em đi trên bờ nước dưới bến dâng lên (Mùa hoa xoan), Ta về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng (Miền đất quê hương), Cả rừng hoa hái chờ em ngày ấy/ Biết bao mùa còn trôi tím trong anh (Trong suốt sông Kỳ Cùng), Sông mất một đời trôi đi dại dột/ Tôi mất một đời để quên một người (Một đời), Cuối tháng ba hoa suốt đêm dài/ Nghe gió thoảng biết cây vườn còn thức (Mùa hoàng lan), Nhân thế bao la như biển rộng/ Nỗi buồn một giọt cũng ngầm đau (Tháp Chàm), Nào ai nói cùng ta có gì vĩnh viễn/ Hoa tím được bao nhiêu trước mãi mãi hoang tàn (Ngẫu hứng sông Tiền), Ai bỏ quên ở Đại Từ mùa rét cũ/ Khăn mùa đông giờ đã như mây (Về nơi sơ tán cũ)..vv

Đó chính là vẻ đẹp độc đáo của thơ Lê Thành Nghị, một phong cách khó lẫn trong thơ Việt đương đại.

Hải Dương đầu Xuân Quý Mão 2023

______________

Cao Ngọc Thắng: Hoa thường hay héo cỏ thường tươi. Báo Văn nghệ Công an ngày 8 tháng 9 năm 2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm