TIN TỨC

Cảm xúc hoài hương trong thơ Quang Chuyền

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-13 17:09:17
mail facebook google pos stwis
1167 lượt xem

TRẦN KHOÁI

Xa quê, nhớ quê là lẽ đương nhiên. Nhưng cái nhớ, cái thương tới mức trăn trở, đau đáu, da diết một đời là chuyện chúng ta cần quan tâm chia sẻ. Nói những câu “bâng quơ” này là khi tôi nghĩ về nhà thơ Quang Chuyền cùng với gia tài thơ ông có.

Sinh nãm 1945, tính đến nay dù vui hay buồn thì ông cũng đã vin vào cánh cửa “bát tuần” của đời người. Chuối chín cây hay chín buồng cũng đã đều là chín, ấy thế mà ông vẫn còn biền biệt phương Nam (ông ở quận Tân Bình, TP.HCM). Quê nhà với ông vẫn là nơi chân trời, góc biển (ông là người làng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Đeo cái ba lô đựng tuổi 80 liệu có kịp về. Nghĩ như thế và cảm như thế, tôi ngồi đọc thơ ông qua tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – NXBHNV ấn hành năm 2023.

Tôi và Quang Chuyền là hiện tượng “Văn Kỳ Thanh”, chả là năm 1968 về nhận công tác ở ty giáo dục tỉnh Tuyên Quang (Nay là Sở GD-ĐT tỉnh Tuyên Quang) ngày nào cũng lên phòng tổ chức để xem họ quyết định về đâu. Nhớ lại một chiều cuối hạ, nhìn thấy tờ báo Tuyên Quang để lăn lóc ở ghế ngồi, khi về tôi cầm tờ báo theo. Một mình ra ngồi ở bến phà Nông Tiến. Giở đọc tờ báo, gặp bài thơ “Chiều Thành Tuyên” của ông. Bài thơ viết theo dạng thơ tự do. Trong sáng, dễ nhớ, câu chữ dung dị, gợi cảm, về một chiều thành Tuyên ngày đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: “Chiều thành Tuyên/ Nắng khép dần cửa sổ/ Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa/ Chim về sải cánh qua soi…”. Đây là vẻ đẹp muôn chiều của Thành Tuyên. Nhưng chiều nay đã có biến động: “…Từ bữa quê ta bước vào kháng chiến/ Ngày như ngắn lại- chóng buông chiều…”

Đúng là không khí chiến tranh đã phả sức nóng vào cái thị xã miền núi phía Bắc vốn rất yên lành

Đọc thơ nhau từ ngày ấy - thế mà 42 năm sau (2010), tôi và Quang Chuyền mới biết mặt nhau và nắm tay nhau. Đấy là cái ngày ông và nhà thơ Gia Dũng đến nhà tôi. Chạy ra cổng đón khách. Ông Gia Dũng giới thiệu: “Quang Chuyền vừa ở TP.HCM ra. Cùng quê ông. Nên dẫn đến đây, anh em gặp nhau…”

Tôi bắt tay Quang Chuyền và tự thú – Nghe về ông nhiều, đọc thơ ông ngày tới Tuyên Quang, thế mà hôm nay mới gặp. Quang Chuyền cười nhỏ nhẹ cảm ơn. Nhìn vào mắt ông tôi đã cảm tình, vì ở đấy toát lên sự ấm áp, dịu dàng, chân thực…

Nhà thơ Gia Dũng nói với tôi: Lão này con nhà lính nhưng nên gọi là “chị” Chuyền, lúc nào cũng thì thầm nhỏ nhẹ, chứ không chém to, kho mặn như bọn mình

Rồi lại là chia tay mãi tới năm 2020, tới Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 10 tôi mới gặp lại Quang Chuyền.

Thật may trong những năm xa ấy, mỗi khi ra tập thơ mới nào ông cũng gửi tặng tôi với sự trân trọng “Của tin gửi một chút này làm ghi”

Tôi đã đọc – để đó rồi thấm thía sự đằm thắm trữ tình cùng vẻ đẹp u hoài, rung cảm, ám ảnh lòng người trong thơ Quang Chuyền. Bằng cảm thức của mình tôi nhận ra, thơ Quang Chuyền đầy nét thân phận, kiếp người: “Đời người nay đó mai đây/ Văn thơ chẳng thể lấp đầy nhớ thương” (Nẻo về). Có thể nói có điều này bởi lẽ nó được nuôi dưỡng bằng nguồn cảm xúc chân thành, gan ruột… nhuốm đẫm mỗi câu thơ, bài thơ của ông.

Thơ Quang Chuyền không triết lý ồn ào nhưng chan chứa những trải nghiệm của đời người. Vì thế ông viết bất kỳ đề tài nào người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận, hòa nhập, chia sẻ…

Nhớ lại ngày giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nói với tôi về nhà văn Nguyễn Tuân. Cụ khen Nguyễn Tuân rất sành chữ nghĩa. Ví như Nguyễn Tuân thích gọi người làm thơ là thi nhân, hơn gọi là thi sĩ. Cụ cho rằng thi sĩ chỉ mang nghĩa là người làm thơ, còn thi nhân nghĩa nó rộng hơn nhiều. Vì người thơ – điều ấy nói lên thơ của họ là hồn vía, nhân cách, phẩm giá của họ. Chả thế mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Người thơ phong vận như thơ ấy…”. Nếu là vậy, Quang Chuyền thuộc “tạng” nhà thơ mang đầy đủ nghĩa thi nhân

Vì lẽ này nên khi đọc thơ Quang Chuyền đòi hỏi chúng ta cần biết đôi điều về cuộc đời của nhà thơ. Bởi vì cuộc đời ấy đã khúc xạ làm nên thi nghiệp đáng quý của ông.

Từ nhiều nguồn, trong đó có những điều chính nhà thơ tâm sự. Năm 10 tuổi ông đã trải qua biến cố gia đình đau xót. Cha ông bệnh trọng ra đi năm cụ mới 36 tuổi. Nhà 5 anh chị em, tất cả trông vào gồng gánh chạy chợ của mẹ, cùng với đôi ba sào ruộng. Mẹ đành khuyên Quang Chuyền thôi học, để giúp mẹ việc nhà và trông nom các em.

Thần đồng hay là bất hạnh - Cậu bé Quang Chuyền làng Quan Tử - Gốm Sơn Đông đã định phận đời mình năm mới 10 tuổi, bằng lời cầu xin: “Mẹ cho con lên Tuyên Quang sống dựa ông bà ngoại và cậu để con được đi học. Con sẽ làm thêm để có tiền sách, bút…Mẹ không phải lo nhiều cho con…”

Tôi cho rằng cuộc chia ly của Quang Chuyền ở tuổi lên 10, với quê, với mẹ, với các em…để lên xứ lạ Tuyên Quang chính là dấu ấn, là bước ngoặt…ám ảnh suốt cuộc đời ông. Tôi cũng là một đứa trẻ như vậy nên rất hiểu nội ám ảnh này cùng những hệ lụy của nó. Mười tuổi tôi cũng xa quê, xa mẹ, xa em… Cho tới hôm nay vẫn nhớ như in cái ngõ Bảo toàn cuối phố Khâm Thiên - Hà Nội, phía bên kia là Ô Chợ Dừa. Tôi học ở trường cấp 1 Trung Phụng (nay gọi là trường tiểu học) ở cuối ngõ chợ Khâm Thiên. Con đường đê La Thành tôi đi học, chắc bây giờ đã khác. Ngày xưa nó là làng, xóm. Bao nhiêu nước mắt tôi đã rơi trên đoạn đường ấy, vì nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em…

Vẫn biết được anh chị con ông bà chăm sóc, nhưng lúc nào cũng mặc cảm cô đơn, côi cút thua thiệt đầy ắp trong lòng. Có lẽ những điều này ở tuổi trưởng thành người ta có cách giải tỏa, nhưng đối với trẻ con nó trở nên bất lực vì thế càng tội nghiệp.

Trở lại với Quang Chuyền. Học hết cấp 2 – ông rẻ ngang vào trường trung cấp sư phạm Việt Bắc (ngày ấy vẫn còn khu tự trị Việt Bắc) - Chắc chắn ông mong một ngày ra trường làm anh giáo viên hiền lành sớm tối ở một mái trường xa, gần nào đó. Sẽ có lương, sẽ có dịp về quê - Cái làng Gốm Quan Tử ở tận cuối sông Lô…

Ông sẽ mua cho các em manh quần, tấm áo, gói quà. Đưa cho mẹ dăm ba đồng thêm thắt. Ông sẽ đi dọc đường làng để người ta nhận ra mình đã lớn khôn…

Không rõ ra trường ông đã kịp làm ông giáo ngày nào chưa. Chỉ biết ông từng là biên tập viên của tờ tạp chí Văn nghệ Việt Bắc. Và cũng từ đây ông bước vào cuộc đời quân ngũ. Không phải riêng ông mà cả thế hệ của ông đã nhiệt tình, tự nguyện làm công cuộc “xẻ dọc Trường Sơn…” cứu nước, với lẽ sống “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Chiến tranh với bao sự khốc liệt của nó… Quang Chuyền đã có mặt khắp các chiến trường Nam, Bắc để cùng đồng đội và nhân dân làm nên ngày 30/4/1975 ca khúc Khải Hoàn.

Có thể nói những năm tháng chiến tranh có rất nhiều mất mát. Song điều Quang Chuyền vẫn giữ nguyên vẹn cho mình, cho thơ, đấy là cái “giọng quê”, “điệu quê”, “hồn quê”, “hồn nhớ”, “hương tâm”… bền bỉ, dịu dàng, da diết chân thật như thể thơ lục bát muôn đời của dân tộc.

Tất cả những điều đó đã làm nên “cái tạng” Quang Chuyền và thơ ông.

Trong sáng tạo văn chương, đã từng có ý kiến cho rằng: cái “tạng” riêng của mỗi người, chỉ nên sống và viết theo cái “tạng” của mình. Đó chính là điều mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng đề cập “… Người ta viết văn từ những ấn tượng lúc lên 5 lên 7 chứ không phải ba mươi, ba nhăm và cái đó không thay đổi được.

Cái đào tạo ra tài năng, phong cách, sở trường là những hoàn cảnh sống từ lên 5 lên 7 – Cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy… Sau này thay đổi quan điểm, lập trường chứ không thay đổi cái phạm vi đề tài, cái cách viết, cách cảm xúc, cách nghĩ. Không nên bắt họ thay đổi. Bắt vô ích…” (Hoài Thanh)

Đúng là Quang Chuyền đã viết bằng cái “tạng” của hồn mình, cái điệu hồn, “Thân phận, kiếp người” mang đậm chất ly quê.

Trên dưới 20 tập thơ Quang Chuyền tôi đã đọc. Điều dễ nhận ra ở thơ ông hướng nội rất sâu, hình như nhà thơ chỉ nhìn vào lòng mình và kể chuyện lòng mình. Với ông thơ không chỉ là chuyện văn chương mà nó còn là nguồn sống, lẽ sống, đời sống ông với quê hương…

Đọc thơ Quang Chuyền luôn có cảm giác - thơ ông mang nhịp thở nhân gian, nhịp thở người bộ hành đường trường mưa nắng. Những cảm giác có thực ấy cứ thấm dần, thấm dần để rồi ta phải thốt lên: “Thơ Quang Chuyền hay, thấm thía đến mức đau đớn”.

Hãy nghe một đoạn ông viết về mẹ: … “Bao nhiêu chỗ ướt mẹ nằm/ Câu thơ ai viết đằm đằm mưa rơi/ Cha đi tuổi mẹ ba mươi/ Một thân lầm lụi chống trời nuôi con…” (Con cầu mong mẹ)

Còn đây là lần ông về thăm làng cũ: “Nền nhà xưa ở xóm Đông/ Tìm về nơi ấy tôi không còn nhà/ Tôi đi biền biệt ngày xa/ Thăm quê mà chả nhận ra người làng…” (Nẻo về)

Khó mà cầm lòng khi đọc những câu thơ như thế.

Đây lại là một đoạn đường ông đưa tiễn cậu mình về nơi yên nghỉ cuối cùng: “Cháu đưa tiễn cậu chiều nay/ Cậu ơi còn đoạn đường này nữa thôi…/ Nén nhang cây nến lập lòa/ Tưởng nghe tiếng cậu- Chuyền à khỏe không?” (Chiều đưa tiễn cậu)

Đoạn thơ làm ta nhớ tới câu nói của một nhà văn: “Coi người chết như vẫn sống, không phân biệt âm dương. Thế mới là yêu thương sâu sắc…”

Nhớ lại ngày tập thơ “Lục bát không mùa” cùa ông ra mắt bạn đọc (2011). Người đọc đều khẳng định: “Quang Chuyền viết thơ lục bát rất thành công”. “… Ông là một trong những nhà thơ viết lục bát xuất sắc trong các nhà thơ đương đại” (Nguyễn Quang Thiều)… Ông là người “đã đóng góp tiếng nói riêng vào tiếng nói chung nhằm đưa thơ lục bát cũ càng lên tầm cao mới mẻ hiện đại và sang trọng…” (Văn Lê).

Với tôi Quang Chuyền và thơ lục bát là một. Bởi nhẽ ông đã uống dòng sữa ấy, ông nuôi hồn mình từ những “…Chiều chiều ra đứng ngõ sau… Anh đi anh nhớ quê nhà…Con cò đi đón cơn mưa…Con cò lặn lội bờ sông…”. Những âm hưởng lục bát, những nỗi niềm lục bát nghìn đời đấy là Quang Chuyền- Đấy là thơ ông… Với những suy nghĩ như thế việc Quang Chuyền thành công với thơ lục bát của dân tộc là lẽ đương nhiên.

Trong tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – Nhà thơ đã cặm cụi chia thơ và đời thành ba phần theo dòng chảy thời gian với những tiêu đề để đánh dấu mỗi giai đoạn. Đó là “Từ nguồn” (1965-1985); “Theo sông” (1985-2010); “Về biển” (2010-2023)

Còn tôi bằng những gì biết về thơ và đời ông luôn có suy nghĩ: Quang Chuyền là người từ tuổi ấu thơ đã bị dẫn thẳng vào “biển đời” – mênh mông sóng gió, được, mất, hơn thua, ngậm ngùi, kiêu hãnh… Là những năm tháng chiến tranh khốc liệt, là sự vật vã mưu sinh, là bao ân tình chưa trả, bao mong ước chưa thành…

Với quang Chuyền hôm nay ông đã đi và đã tới. Đường binh nghiệp cũng đã khép lại. Là một nhà văn, ông có cả một gia tài văn chương mà người đọc, bạn bè nể trọng. Cuộc sống gia đình vợ chồng hòa hợp, con cháu trưởng thành… Thế cũng là đủ, thế cũng là vui với một người đã ở tuổi già…

Song vẫn còn – còn một khỏang trống không lúc nào Quang Chuyền nguôi ngoai. Đấy là niềm khao khát về lại làng xưa - bến cũ… Khoảng trống này hình như càng về già nó càng rộng ra, lớn lên. Vì thế nó trở nên dóng diết, bất lực. Nó như món nợ ân tình mà con người phải trả, phải về mới trút được mặc cảm… “Nắng mưa thui thủi quê người một thân” (Nguyễn Du)

Có thể coi bài thơ “Nẻo về” của ông là một minh chứng. Ôi! Chỉ một “Nẻo về” thật nhỏ nhoi, thật khiêm nhường. Ấy thế mà xa quá, khó thế: “Ngoài đời hay ở chiêm bao/ Sông Lô thường vỗ sóng vào đời tôi/ Bài thơ viết thủa thiếu thời/ Đọc lên lại gặp bời bời nỗi quê/ Núm nhau với một cõi về/ Tôi còn chôn ở chân tre của làng/ Tôi còn khu mộ Chùa Am/ Vắng thưa màu khói chân nhang thường ngày…” (Nẻo về)

Cúi đầu trước đoạn thơ của Quang Chuyền làm tôi nghĩ về bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi nhân Hoàng Cầm và nhận ra: Hoàng Cầm cũng đã từng làm cho mình một cuộc trở về kinh Bắc trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đó sao!
Từ đó tôi tin sự dang dở: với quê với làng của Quang Chuyền, sẽ cho ta chờ đợi những sáng tạo mới của ông.

Quê 4-2024
T.K.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm