TIN TỨC

Chế Lan Viên – Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-24 15:11:04
mail facebook google pos stwis
2238 lượt xem

Nguyễn Quỳnh Anh

 Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền Văn học Việt Nam thế kỷ XX, với trên 50 năm cầm bút nhà thơ đã để lại cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp đồ sộ với nhiều thể loại gồm thơ, văn, tiểu luận, phê bình… Riêng về thơ, ông đã để lại 13 tập thơ với trên một nghìn bài. Những vấn đề về thơ Chế Lan Viên đã được các nhà nghiên cứu phê bình quan tâm suốt hơn tám mươi năm qua.

Ông cũng là nhà thơ luôn tìm tòi, sáng tạo, trăn trở về thơ cho đến những ngày cuối đời, trong khi các nhà thơ cùng thời, cùng tầm cỡ với ông đã dừng lại với những thành tựu đã ổn định. Mặc dù nhà thơ đã rời xa cõi thế trên ba mươi năm nhưng thời gian ngày càng khẳng định vị trí và tầm vóc của ông đối với văn học nước nhà. Đóng góp về thơ của Chế Lan Viên vô cùng phong phú, đa dạng tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết nhỏ này chúng tôi chỉ điểm lại những suy ngẫm về thơ của ông, tức là những vấn đề mang tính lí luận văn học được ông đặt ra qua những bài thơ, câu thơ tiêu biểu nhằm bổ sung cho bạn đọc những khía cạnh mang tính lí luận văn học trong quá trình tiếp nhận thơ Chế Lan Viên và văn học nói chung với mấy vấn đề dưới đây.

  • Những vấn đề về mối quan hệ giữa Hiện thực cuộc sống – Nhà văn – Tác phẩm

Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đều thống nhất cho rằng Chế Lan Viên là người viết nhiều những câu thơ, đoạn thơ về thơ nhất, chưa kể đến các cuốn sách mang tính tiểu luận, phê bình như: Suy ngẫm và bình luận, Phê bình văn học, Nghĩ cạnh dòng thơ. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn, khi ông mới 17 tuổi, còn đang đi học nhưng giọng thơ của một người già trước tuổi, tiếc thương cho một vương quốc Chiêm Thành huy hoàng, than khóc cho những bóng ma Hời ảo não. Nhưng Cách mạng tháng Tám đã làm thay đổi nhà thơ, đem đến cho nhà thơ nguồn sống mới để ông “sáng mắt sáng lòng”, đi từ “thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”. Sự bắt nhịp của nhà thơ với thời đại mới được thể hiện rõ nhất trong những năm  60 của thế kỷ XX, tiêu biểu trong đó là tập thơ Ánh sáng và phù sa. Ngay từ nhan đề tập thơ đã cho ta thấy nguồn năng lượng mới, nguồn sống mới đã bồi đắp tâm hồn nhà thơ đồng thời ông cũng xác định rõ trách nhiệm của nhà thơ, của người nghệ sĩ trước cuộc đời nhất là trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới khi ấy. Tuy nhiên những vấn đề mang tính lí luận mà Chế Lan Viên đặt ra đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Người nghệ sĩ phải là người gắn bó với cuộc đời, phải mở lòng mình đề đón nhận cuộc đời, phải rút ngắn khoảng cách cuộc đời và nghệ thuật…

Tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, cùng với các tập Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận, Sông Đà của Nguyễn Tuân, Mùa lạc của Nguyễn Khải… Tuy nhiên Chế Lan Viên có hướng đi riêng với những vần thơ giàu cảm xúc và triết luận. Trong đó không thể không kể đến bài thơ Tiếng hát con tàu, một bài thơ xuất sắc nhất của tập thơ và cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên. Bài thơ thể hiện trách nhiệm của người nghệ sĩ khi đến với cuộc đời, nhất là những vùng xa xôi của Tổ quốc và chỉ có thể đến đó  Khi lòng ta đã hoá những con tàu, hình ảnh con tàu hay chính là tiếng gọi của Tổ quốc, của trái tim, tiếng gọi của sự hòa nhập và lên đường như ngay trong lời Đề từ của bài thơ:

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu

Bài thơ đặt ra bằng những câu hỏi tu từ, hay đó là cách nhà thơ tự hỏi mình để thể hiện sự nhận thức về mối quan hệ cuộc đời – nghệ thuật, chỉ có hiện thực cuộc sống phong phú mới là ngọn nguồn của nghệ thuật chân chính. Chế Lan Viên dùng các hình ảnh: gió ngàn đang rú gọi, những vành trăng…

để nói đến một miền Tây Bắc hay miền xa xôi của Tổ quốc, chính những hình ảnh đó mới đem lại cảm hững sáng tác mới mẻ cho nhà thơ, cho người nghệ sĩ chân chính bởi Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép.

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia

Trong bài thơ còn rất nhiều lần Chế Lan Viên khẳng định Tây Bắc và hiện thực cuộc sống phong phú nơi đây chính là mẹ của hồn thơ, là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo.

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta

Bên cạnh bài thơ Tiếng hát con tàu, còn rất nhiều bài thơ trong các tập thơ khác Chế Lan Viên cũng đề cập đến mối quan hệ cuộc sống và nghệ thuật hay để “Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng” chứ không thể là những lời trống rỗng. Người nghệ sĩ phải gắn bó chan hòa với cuộc sống, phải thấy sức mạnh từ cuộc sống, phải buồn vui cùng với những nỗi buồn vui của nhân dân, phải có cách nhìn đời, nhìn người đa diện, nhiều chiều:

Phá cô đơn ta hòa hợp với người

Lấy cái vui cuộc đời đánh bại mọi đau thương

Xưa tôi hát mà nay tôi tập nói

Chỉ nói thôi mới nói hết được đời

Nhà thơ luôn trăn trở phải “Phát giác sự việc ở bề chưa thấy” hay ở bề sâu, bề xa . Ông cũng không cho phép mình viết những câu thơ hời hợt, dễ dãi, mỗi câu thơ phải là “Muối lắng ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu”(Đối thoại mới).

 

  • Mối quan hệ Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc

Cùng với mối quan hệ Hiện thực cuộc sống – Nhà văn – Tác phẩm như chúng tôi đề cập trên, Chế Lan Viên cũng rất quan tâm đến vấn đề tiếp nhận của người đọc, đó là điểm đáng lưu ý ở Chế Lan Viên so với nhiều nhà thơ cùng thời. Chế Lan Viên có rất nhiều bài thơ, tập thơ thể hiện sự quan tâm đó của mình như: Nghĩ về thơ, Sổ tay thơ, Thơ và bạn đọc, Nghề chúng ta, Thơ về thơ… Sự hình thành và phát triển của lý thuyết tiếp nhận nhằm khẳng định hoạt động văn học với các khâu Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc ngày càng được chú ý đúng mức. Sự ra đời của lý thuyết tiếp nhận cho thấy sự dịch chuyển vị trí trung tâm từ tác phẩm sang người đọc, từ đó có thể nhận thấy lịch sử văn học không chỉ đơn thuần là các tác giả, tác phẩm mà cả lịch sử tiếp nhận của người đọc cũng phải được quan tâm đúng mức, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng: “Nói đến việc tạo nghĩa một tác phẩm văn học, nếu chỉ nói đến tư tưởng, ý đồ sáng tạo, chủ đích của tác giả vẫn chưa đủ. Nếu không có người đọc với toàn bộ kiến thức, sự lịch lãm, với quan điểm đạo đức, thẩm mỹ riêng tiếp nhận văn bản tác phẩm thì văn bản đó vẫn không có hiệu lực của văn bản nghệ thuật: lý thuyết tiếp nhận xuất hiện. Với lý thuyết tiếp nhận, người đọc được đặt đúng địa vị của mình; hành động đọc là hành động tạo nghĩa cho văn bản”.  Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm mới chỉ là hệ thống kí hiệu trên giấy chỉ khi nào có sự tiếp nhận tác phẩm mới có đời sống thực sự của nó, Giôn Điuây phân biệt sản phẩm nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật, tương ứng với sáng tác của nhà văn và tiếp nhận của người đọc, “chỉ khi nào được công chúng thưởng thức, tiếp nhận thì mới trở thành tác phẩm nghệ thuật”. Bên cạnh đó nhiều nhà lí luận rất đề cao vai trò của bạn đọc, họ coi đó là quá trình đồng sáng tạo, một số nhà văn còn để ngỏ kết thúc của tác phẩm hoặc đưa ra các phương án kết thúc để người đọc lựa chọn. Từ những tiền đề trên, lý thuyết tiếp nhận ra đời nhằm khẳng định vai trò quan trọng của người đọc trong cả quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, điều đó được Chế Lan Viên thể hiện rất rõ:

Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi,
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá.
Nó không là anh, nhưng nó là mùa.

                                            (Sổ tay thơ)

Nghệ sĩ là người nào biết giãn cách họ với ta bằng tác phẩm

Đem tất cả cái Bên Trong tạo hình thức Bên Ngoài

                                            (Tạo hóa tạo hình)

Cho đến những năm tháng cuối đời, mặc dù phải đấu tranh với bệnh tật những Chế Lan Viên luôn luôn trăn trở về trách nhiệm của người cầm bút đồng thời qua Di cảo thơ ông cũng mong mỏi sự đồng cảm  của người đọc, sự tiếp nhận của bạn đọc trowng tương lai: “Nhìn trang sách biết mình hữu hạn” và “Một nghìn câu thơ thì chín trăm câu dang dở, và ai đón thơ anh ở cuối con đường” hay “Đừng đuổi thơ tôi, vì một chiều tà nào ngả bóng/ Hãy kiên lòng, sẽ thấy nắng mai lên”.

Mặc dù đã hơn ba mươi năm nhà thơ đi xa cõi thế nhưng những gì Chế Lan Viên nêu ra về thơ đến nay chúng ta vẫn cần phải tiếp tục suy nghĩ có như vậy việc tiếp nhận di sản thơ đồ sộ mà ông để lại cũng như văn chương nói chung mới có ý nghĩa thực sự. Để khép lại bài viết nhỏ này tôi xin dẫn lại lời tâm sự của ông với bạn đọc, với cuộc đời: Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể/ Để mặn lòng những kẻ muốn vô tư.

N.Q.A

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm
Bi kịch tiếp nối bi kịch
Bài viết về truyện KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM – truyện ngắn của Trầm Hương
Xem thêm
Thơ Bùi Minh Vũ từ góc nhìn địa - văn hóa
Từ góc nhìn địa – văn hóa và mỹ học sinh thái, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài viết công phu, thấm đẫm cảm xúc và tư duy học thuật về thơ Bùi Minh Vũ – đặc biệt là tập Những tiếng đàn hồng (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Xem thêm
Nhà thơ Xuân Trường – mẫn cán và lãng tử
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết về “Hai vệt nắng chiều”, thơ Xuân Trường, NXB Hội Nhà Văn 2018
Xem thêm
Ánh sáng cuối chiều và ký ức người lính thi sĩ
Tập thơ Giọt nắng cuối chiều của Trần Ngọc Phượng là một tuyển lựa tâm huyết, ghi lại hành trình sống và cảm từ một đời người từng trải: từ trận mạc đến hậu chiến, từ ký ức cá nhân đến thế sự chung.
Xem thêm
Đặc trưng giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn
Bậc thầy truyện ngắn Nga A.P.Chekhov (1860 - 1904) từng cho rằng: “Muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu văn chương (hay giọng điệu nghệ thuật) là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là trong truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 2)
Sau phần đầu khiến giới văn chương phải xôn xao, TS Hà Thanh Vân tiếp tục “lên tiếng” bằng phần 2 – nhiều dẫn chứng, thuyết phục hơn và không kém phần lôi cuốn…
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 1)
Bài viết dưới đây của TS. Hà Thanh Vân là một góc nhìn thẳng thắn về chất lượng một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì báo Văn nghệ.
Xem thêm
KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!
Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh/ Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm.
Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm