TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • ‘Gập ghềnh khúc đau’ và nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai

‘Gập ghềnh khúc đau’ và nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-17 17:57:21
mail facebook google pos stwis
1836 lượt xem

TRẦN HOÀI ANH

Tập thơ Gập ghềnh khúc đau* là những tình cảm chân thành về những nỗi ưu tư trần thế của một hồn thơ trong trẻo, hiền lành như chính thi nhân đã xác tín một cách đáng yêu: “Nàng như viên cuội trắng/ Mãi lăn theo dòng đời/ Dù dòng trong hay đục/ Vẫn là cuội trắng ngời (Viên cuội trắng)…

1. Không biết tự bao giờ, bài ca dao “Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi” đã hằn sâu trong tâm thức tôi như một sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Bài ca dao không đơn thuần gợi hình ảnh những chiếc cầu quê đơn sơ, mộc mạc đã tồn tại ở làng xã Việt Nam hàng ngàn năm như một chứng từ văn hóa của một đất nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời mà còn là sự dự cảm về những khó khăn, gian khổ, những chênh vênh của phận số mà mỗi con người đã/ đang/ sẽ trải qua trong cõi nhân sinh đầy bất an này.

Là một nữ thi nhân, lại là một nhạc sĩ, trái tim nữ sĩ Trương Tuyết Mai, nhạy cảm và mỏng manh như chiếc “lá vỡ” (tên bài thơ TTM), cùng với quá trình nghiệm sinh sâu sắc từ những nỗi đau trong cuộc đời, nên dấu ấn về những ưu tư trần thế đong đầy trong thơ Trương Tuyết Mai là tất yếu, mà tập thơ Gập ghềnh khúc đau là một xác chứng, như chị đã tự nhận: “Đau tình ta khóc trong mơ/ Đau đời ta hóa lơ ngơ giữa đời” (Đau). Phải chăng, chính nỗi “đau đời”, “đau tình” là một phẩm tính làm nên hệ giá trị trong hành trình sáng tạo thơ Trương Tuyết Mai, một nhà thơ mà độ sâu lắng của trí tuệ và cảm xúc giàu chất nữ tính là một điểm “son” trong thơ chị.

2. Nguyễn Du, một thiên tài thi ca của dân tộc và nhân loại, người đã viết truyện Kiều bất tử đã từng xác quyết: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Rồi, cũng chính ông lại xa xót thốt lên một cách đắng cay: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”, nghe thật não nề!? Và điều mà đại thi hào Nguyễn Du đã xác quyết từ sự trải nghiệm trong hành trình sống và viết của ông về những được/mất, những hạnh phúc/khổ đau, vinh quang/cay đắng… của kiếp “hồng nhan đa truân” được minh chứng qua phận số nàng Kiều như linh ứng vào cuộc đời và nghệ thuật của Trương Tuyết Mai, một nữ nhà thơ vô cùng đa cảm nhưng cũng lắm đa đoan. Có hiểu được điều này, ta mới cảm nhận được những góc khuất của cuộc đời mà thi nhân đã trải nghiệm cũng như giải mã được nỗi đau và niềm ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai mà ở bình diện nào của cuộc sống cũng cho thấy sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Bởi, với trái tim bỏng cháy của một nghệ sĩ, chị đã nhận ra: “Cuồng si và mê đắm sóng dữ cũng bạc đầu/ Những rung động nhiệm màu lòng càng thêm cháy khát” (Sóng dữ cũng bạc đầu). Và những suy tư mang tính triết luận này đã phần nào cho thấy một phương diện khác trong thơ Trương Tuyết Mai, đó chính là những ưu tư trần thế lắng sâu trong tập thơ. Có nhận ra điều này, ta mới mong chạm đến những cung bậc cảm xúc, những niềm khắc khoải, day dứt trong tâm cảm thi nhân như chị đã chia sẻ: Ly đời uống cạn đã lâu/ Vẫn say nghiêng ngửa vẫn sầu đầy vơi… (Ly đời). Bởi, hơn ai hết, là một nghệ sĩ mang trái tim đa cảm và dễ vỡ, hơn nửa cuộc đời sống trên cõi nhân gian, chứng kiến bao biến thiên của xã hội, với những khóc cười nhân thế, chị luôn ý thức rằng: “Đời cầm bút vắt tim hòa nước mắt/ Vẽ nhân tình thế thái đắm say” (Đời cầm bút). Thơ của Trương Tuyết Mai trong Gập ghềnh khúc đau cùng các tập thơ khác như: Một nửa cho anh (VN Tp. HCM 2006); Lá vỡ (VN Tp. HCM, 2008); Nghe trăng (Văn học, 2009); Gọi thầm (Hội Nhà văn, 2013); Mắc cạn (Hội Nhà văn, 2018), là sự kết tinh những rung cảm, suy tư, trăn trở từ khối óc, trái tim của chị trước thế thái nhân tình. Chỉ cần đọc tựa đề những tập thơ, ta sẽ cảm nhận được một điều gì đó không trọn vẹn, vỡ tan, trắc trở, trái ngang của thân phận lưu đày từ/ và một cái tôi lẻ loi, cô độc. Đây, chính là căn nguyên tạo nên nỗi ưu tư trần thế trong thơ chị.

Chứng kiến những trái ngang không thể lý giải được trước bi kịch của đời sống, khi mọi giá trị đang bị đảo lộn trước sức mạnh của đồng tiền, chị đã xa xót thở than hết sức thành thật: “Xoay vận được không khi đồng tiền lên ngôi / Xé toạc hết mọi nghĩa nhân – ân – tín! (Đau lắm). Bài thơ có tên khá chân mộc nhưng đã chạm được tầng sâu tâm thức người đọc. “Đau lắm”!? Đó là nỗi đau không chỉ của riêng thi nhân mà là nỗi đau của những con người có lương tri trước những “đảo điên” của thế sự, khi đồng tiền đã trở thành một thứ độc dược giết chết mọi nghĩa tình. Xưa, tiền nhân cũng đã cảnh báo “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”, và nay liệu có khác gì xưa!? Nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai, vì thế, luôn mặn chát chất “đời” và nằm trong dòng chảy của những giá trị nhân bản ở thơ ca dân tộc và nhân loại. Bởi, với ý thức của một nghệ sĩ cầm bút, chị đã tự nguyện dấn thân, sẻ chia với sự bất hạnh của những người nghèo khổ: “Không ai nhờ cũng ôm cũng gánh/ Không ai khiến cũng khóc cũng cười/ Cả một đời thương vay khóc mướn/ Nỗi đoạn trường bèo bọt phận người (Nghề của tôi). Bài thơ “Nghề của tôi” cũng như bài “Đời cầm bút” là một lời “tuyên thệ” của chị về sự xác quyết tinh thần “dấn thân” (J.P.Sartre) hay “xuống thuyền” (Albert Camus) đối với người nghệ sĩ trước phận số của nhân quần mà chị luôn trăn trở. Không có ý thức “dấn thân” này sẽ không có những nỗi ưu tư trần thế đắng lòng trong thơ Trương Tuyết Mai.

Phàm là nghệ sĩ chân chính, có lương tri, biết sống và viết vì con người, không ai lại không có những trăn trở trước thế thái nhân tình. Bởi vậy, cách đây hàng trăm năm, nhà thơ Tú Xương đã tự thán: “Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn/ Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn/ Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng/ Nhạt phèo quang cảnh bóng trăng suông” (Đêm buồn). Có thể nói, nỗi buồn, niềm đau trước sự thế nhiễu nhương là một hằng số văn hóa trong thơ ca chân chính như Trương Tuyết Mai đã tâm niệm: “Nàng đi gom nhặt chuyện đời/ Để nghe bao nỗi khóc cười nhân gian/ Để thấu đời lắm trái ngang/ Để thương hết dạ gian nan phận người” (Gom nhặt). Và những điều trái ngang này được thi nhân minh chứng với bao khắc khoải, ưu lo, với biết bao câu hỏi mà câu trả lời chỉ là những ảo vọng xa mờ: “Bao đời bao kiếp hạt lúa củ khoai/ Bỗng dưng thất nghiệp – hỏi trời tại ai? (Bỗng dưng), để rồi, cũng như bao người có lương tri, thi nhân đành bất lực nhìn những cảnh trái ngang cứ diễn ra trước mắt mình mà than thở: “Sao mãi tồn tại nhiều bất công, oan trái/ Sao nhiều nỗi đau và nước mắt ngược dòng/ Sao buồn thế? Nỗi niềm ơi – buồn thế!/ Đâu phải điều người nằm xuống hằng mong!” (Chút tâm tư). Song, đâu phải chỉ có người nằm xuống mới mong cuộc sống không còn những bất công mà cả những người còn sống, hàng ngày đang lăn lộn trong cõi nhân sinh vẫn ước mong, nhưng nào có được đâu!? Và ước mơ, khát vọng cứ mãi vẫn là ước mơ và khát vọng treo lửng lơ trên cây thập giá đời…

Trước những điều phi lý, thi nhân cũng có lúc muốn buông bỏ tất cả để “cho lòng thảnh thơi” như chị đã tự thú: “Oằn vai nàng gánh nàng gồng/ Sao không buông bỏ cho lòng thảnh thơi?/ Gánh đời nặng lắm người ơi/ Sâu – dày – ân – nghĩa – khóc – cười – bể dâu” (Gánh đời nặng lắm) và chị muốn: “Quẳng hết gánh đời cho nhẹ tênh bao nỗi/ Ôm giữ hoài chi những oan trái thế nhân!” (Bất lực). Nhưng rồi, trách nhiệm của nhà thơ với cuộc đời khiến thi nhân không thể “từ bỏ” những nỗi lo toan trước phận số con người và điều này làm cho nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai càng sâu nặng hơn như chị đã ý thức: “Vẫn biết kiếp tằm phải nhả tơ/ Vần thơ gan ruột tươi màu huyết/ Bện dệt buồn vui thẳm phận người” (Nhà thơ). Có thể nói, thơ viết về thế sự là những bài thơ thể hiện khá phong phú cảm thức ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai mà người đọc có thể nhận biết qua cách tác giả đặt tên tập thơ là Gập ghềnh khúc đau. Cuộc sống đời thường nếu gặp những “gập ghềnh” cũng làm cho con người chông chênh, chao đảo, vậy mà ở đây là “khúc đau gập ghềnh”, thì tính bi kịch của đời sống đã được đẩy đến tột cùng, tên gọi tập thơ, vì thế đã chất chứa nỗi ưu tư trần thế đầy ám gợi trong tâm thức người đọc như một dấu ấn mỹ cảm khá tinh tế khi sáng tạo hình tượng thơ của thi nhân.

Nhưng nỗi ưu tư trần thế ấy, không chỉ hiện hữu ở những bài thơ thế sự mà còn được soi chiếu từ một góc nhìn khác trong thi giới Trương Tuyết Mai, đó là những niềm khắc khoải trong thơ tình của chị mà theo tôi, cái “hồn cốt” của thơ Trương Tuyết Mai là ở những bài thơ tình, nhất là những bài thơ nói đến nỗi đau trước những mất mát, tan vỡ, bất hạnh trong tình yêu. Những bài thơ này không chỉ đơn thuần là tình yêu mà còn là những vấn đề của thân phận, của thế thái nhân tình. Và từ những trạng thái cảm xúc này, ta sẽ thấy rõ hơn bản thểnhân vị của một Trương Tuyết Mai nghệ sĩ mà ở đó có sự kết hợp hài hòa, tinh tế giữa con người nhạc sĩ và con người thi ca. Đọc nhiều tập thơ của chị, tôi nghĩ, phải chăng, chính sự hợp hôn nhiệm mầu giữa thi ca và âm nhạc là căn duyên để một người ở vào “tuổi xưa nay hiếm” như chị viết được những câu thơ tình đắm đuối, nồng nàn và đầy khát khao nhưng thấm đẫm vị nhân sinh như: “Hãy nép vào mong manh cho mau thành cát bụi/ Để không còn khát thèm một điểm tựa trần gian” (Khát). Hãy tin vào tình yêu, bởi, chỉ tình yêu mới đem đến cho con người ý nghĩa của cuộc sống. Tình yêu trong thơ Trương Tuyết Mai, vì thế là một vấn đề của nhân tính, nhân tình, nhân tâm nơi con người nên cũng là một bình diện của nỗi ưu tư trần thế trong thơ, để lại những nghĩ suy về cuộc đời, về thế sự, nơi người tiếp nhận như suy ngẫm của chị: “Người thường chết vì của/ Chim thường chết vì mồi/ Ta vì tình đắm đuối/ Chết một đời chưa thôi” (Ngẫm).

Quả thật, khi đã yêu và nếu đó là một tình yêu đúng nghĩa, không phải là một thứ tình yêu gian dối thì người ta phải “Chết một đời chưa thôi” chứ không thể “chết một lần rồi thôi” như người ta vẫn nghĩ. Những câu thơ này không chỉ là thơ tình yêu mà còn là cuộc sống, là thân phận, là thế thái nhân tình, là những giá trị nhân văn mà chúng ta cần trân quí, giữ gìn.

Tình yêu là thế. Nó luôn song hành với sự bất tử, sự tận hiến, sự đam mê. Tình yêu chân chính, đúng nghĩa không chịu sự sắp đặt và áp chế của bất cứ quyền lực nào, cho dù đó là quyền lực của Thượng Đế. (Vậy mà có một thời, người ta buộc tình yêu phải có “tính này”, “tính nọ”, biến con người trở thành một thứ robot không tim khi yêu). Vì thế, cùng với sự hiện hữu của con người trong cõi nhân sinh, tình yêu luôn đặt ra cho con người những trăn trở, những ưu lo, những khắc khoải: “Đã biết giếng không sâu mà vẫn thả dây dài/ Sợi dây tôi mắc cạn giữa muôn vàn rỗng không” (Mắc cạn). Cái cảm giác “mắc cạn giữa muôn vàn rỗng không” đó, nhiều khi cũng đẩy con người vào những nỗi đau trong tình yêu và đây cũng là một phương diện của kiếp nhân sinh mà con người phải đối diện, phải gánh chịu. Thơ tình yêu của Trương Tuyết Mai, bên cạnh những khắc khoải, lắng lo, ưu tư còn là những ước mong được góp nhặt hạnh phúc cho dù đó là những hạnh phúc muộn màng từ những mảnh vỡ cũ xưa: “Ta đi mót lại tình xưa/ Gom từng mảnh vỡ dẫu chưa nguyên lành/ Dù trong dù đục cũng đành/ Chút tình gom nhặt cũng thành tơ duyên” (Chút tình gom nhặt). Và rồi trong những cố gắng “gom nhặt ấy”, có khi chị đã gặp bi kịch và phải trả giá cho những “đam mê”, “khao khát” của mình, để rồi phải sống trong sự thị phi trước tình đời đen bạc. Nỗi nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai vì thế, lại thêm vị đắng: “Nàng là kẻ u mê không lối thoát/ Nuôi dưỡng hoài nỗi khát khao lầm lạc/ Chấp chới không thôi cuộc tình đen bạc/ Ngậm ngùi trắng tay lầm lũi một mình” (U mê). Và có khi, thi nhân muốn chạy trốn thực tại, tìm vào giấc mơ mong được phút bình yên nhưng tất cả cũng chỉ là ảo vọng: “Trốn thực tại nàng ẩn mình vào ảo/ Đâu ngờ trong mơ cũng lắm bẽ bàng” (Đâu ngờ). Bởi, dù chị cố gắng đi tìm, kể cả tìm trong mơ thì “Một bờ vai cũng không thể có/ Biết tựa vào đâu/ Tựa vào bóng – bóng giống ta xiêu đổ/ Tựa vào mơ – mơ đã vỡ từ lâu” (Tựa vào bóng). Tình yêu trong thơ Trương Tuyết Mai, luôn để lại dư vị khổ đau của kiếp nhân sinh là thế!?…

3. Thơ là thế giới tâm cảm của thi nhân trước cuộc đời, ở đó nhà thơ sẽ giãi bày những suy tư, trăn trở của mình về cõi nhân sinh. Thơ Trương Tuyết Mai cũng không nằm ngoài tâm thức này. Đọc Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai, đúng như tên gọi tập thơ, người đọc sẽ cảm nhận không chỉ nỗi đau mà còn cả những chông chênh trong tâm hồn và cuộc đời của thi nhân trước những “bão giông” trần thế. Gập ghềnh khúc đau vì thế, là kết tinh những khắc khoải trong suốt hành trình sống và sáng tạo nghệ thuật của thi nhân. Đây không chỉ là sự tổng kết những suy nghiệm của nhà thơ về cuộc đời, về thế sự, về nhân sinh mà còn là một sự thay đổi thi pháp trong sáng tạo thơ ca của Trương Tuyết Mai, khi chị chọn viết những bài thơ ngắn, một thể thơ không phải dễ làm, nếu người viết không có một sự trải nghiệm cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Rất may, ở tập thơ Gập ghềnh khúc đau, ta thấy Trương Tuyết Mai hội đủ những yếu tố này nên cũng gặt hái được một số thành công trong chọn lựa đề tài, thể hiện cảm xúc. Tuy nhiên, thể thơ ngắn đối với chị, có lẽ chỉ là sự thử nghiệm bước đầu, nên không tránh khỏi những giới hạn trong việc lập ý, lập tứ, sử dụng ngôn ngữ và kiến tạo nhạc điệu trong thơ. Nhiều ý thơ chưa có độ chín của tư duy và chiều sâu tâm hồn, còn dễ dãi trong biểu đạt cảm xúc và tư tưởng nên chưa chạm đến chiều sâu mỹ cảm nơi người đọc như: “Cứ thế mỗi ngày chẳng chút đớn đau/ Ta đã âm thầm trượt qua nhau” (Trượt); Hay “Ôi tình yêu! Tình yêu huyền diệu/ Ta của nhau một thoáng cũng nhiều/ Cũng đủ ấm lòng những chiều quạnh hiu” (Huyền diệu)…

Song, cho dẫu vẫn còn những điều chưa hoàn thiện nhưng Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai cũng đánh dấu một sự thay đổi đáng quí trong thi pháp của chị. Điều này cho thấy ở chị một khát vọng sáng tạo để đổi mới hành trình nghệ thuật của mình. Đây là một phẩm tính không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Thế nên, Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn khó mờ phai mà rõ nhất là những khắc khoải của chị về nỗi ưu tư trần thế. Vì vậy, có thể nói, đây là tập thơ mà khi đọc và ngẫm ngợi, chúng ta sẽ tìm thấy những điều có thể sẻ chia với thi nhân trước những ưu lo trong cõi nhân sinh mà chính ta đang từng ngày, từng giờ đối diện với nó dù muốn hay không!? Tập thơ là những tình cảm chân thành về những nỗi ưu tư trần thế của một hồn thơ trong trẻo, hiền lành như chính thi nhân đã xác tín một cách đáng yêu: “Nàng như viên cuội trắng/ Mãi lăn theo dòng đời/ Dù dòng trong hay đục/ Vẫn là cuội trắng ngời. (Viên cuội trắng)…

Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, Đầu mùa mưa, 18/6/2020

T.H.A

*Gập ghềnh khúc đau, Thơ Trương Tuyết Mai, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2020

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm