TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • ‘Gập ghềnh khúc đau’ và nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai

‘Gập ghềnh khúc đau’ và nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-17 17:57:21
mail facebook google pos stwis
1632 lượt xem

TRẦN HOÀI ANH

Tập thơ Gập ghềnh khúc đau* là những tình cảm chân thành về những nỗi ưu tư trần thế của một hồn thơ trong trẻo, hiền lành như chính thi nhân đã xác tín một cách đáng yêu: “Nàng như viên cuội trắng/ Mãi lăn theo dòng đời/ Dù dòng trong hay đục/ Vẫn là cuội trắng ngời (Viên cuội trắng)…

1. Không biết tự bao giờ, bài ca dao “Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi” đã hằn sâu trong tâm thức tôi như một sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Bài ca dao không đơn thuần gợi hình ảnh những chiếc cầu quê đơn sơ, mộc mạc đã tồn tại ở làng xã Việt Nam hàng ngàn năm như một chứng từ văn hóa của một đất nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời mà còn là sự dự cảm về những khó khăn, gian khổ, những chênh vênh của phận số mà mỗi con người đã/ đang/ sẽ trải qua trong cõi nhân sinh đầy bất an này.

Là một nữ thi nhân, lại là một nhạc sĩ, trái tim nữ sĩ Trương Tuyết Mai, nhạy cảm và mỏng manh như chiếc “lá vỡ” (tên bài thơ TTM), cùng với quá trình nghiệm sinh sâu sắc từ những nỗi đau trong cuộc đời, nên dấu ấn về những ưu tư trần thế đong đầy trong thơ Trương Tuyết Mai là tất yếu, mà tập thơ Gập ghềnh khúc đau là một xác chứng, như chị đã tự nhận: “Đau tình ta khóc trong mơ/ Đau đời ta hóa lơ ngơ giữa đời” (Đau). Phải chăng, chính nỗi “đau đời”, “đau tình” là một phẩm tính làm nên hệ giá trị trong hành trình sáng tạo thơ Trương Tuyết Mai, một nhà thơ mà độ sâu lắng của trí tuệ và cảm xúc giàu chất nữ tính là một điểm “son” trong thơ chị.

2. Nguyễn Du, một thiên tài thi ca của dân tộc và nhân loại, người đã viết truyện Kiều bất tử đã từng xác quyết: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Rồi, cũng chính ông lại xa xót thốt lên một cách đắng cay: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”, nghe thật não nề!? Và điều mà đại thi hào Nguyễn Du đã xác quyết từ sự trải nghiệm trong hành trình sống và viết của ông về những được/mất, những hạnh phúc/khổ đau, vinh quang/cay đắng… của kiếp “hồng nhan đa truân” được minh chứng qua phận số nàng Kiều như linh ứng vào cuộc đời và nghệ thuật của Trương Tuyết Mai, một nữ nhà thơ vô cùng đa cảm nhưng cũng lắm đa đoan. Có hiểu được điều này, ta mới cảm nhận được những góc khuất của cuộc đời mà thi nhân đã trải nghiệm cũng như giải mã được nỗi đau và niềm ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai mà ở bình diện nào của cuộc sống cũng cho thấy sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Bởi, với trái tim bỏng cháy của một nghệ sĩ, chị đã nhận ra: “Cuồng si và mê đắm sóng dữ cũng bạc đầu/ Những rung động nhiệm màu lòng càng thêm cháy khát” (Sóng dữ cũng bạc đầu). Và những suy tư mang tính triết luận này đã phần nào cho thấy một phương diện khác trong thơ Trương Tuyết Mai, đó chính là những ưu tư trần thế lắng sâu trong tập thơ. Có nhận ra điều này, ta mới mong chạm đến những cung bậc cảm xúc, những niềm khắc khoải, day dứt trong tâm cảm thi nhân như chị đã chia sẻ: Ly đời uống cạn đã lâu/ Vẫn say nghiêng ngửa vẫn sầu đầy vơi… (Ly đời). Bởi, hơn ai hết, là một nghệ sĩ mang trái tim đa cảm và dễ vỡ, hơn nửa cuộc đời sống trên cõi nhân gian, chứng kiến bao biến thiên của xã hội, với những khóc cười nhân thế, chị luôn ý thức rằng: “Đời cầm bút vắt tim hòa nước mắt/ Vẽ nhân tình thế thái đắm say” (Đời cầm bút). Thơ của Trương Tuyết Mai trong Gập ghềnh khúc đau cùng các tập thơ khác như: Một nửa cho anh (VN Tp. HCM 2006); Lá vỡ (VN Tp. HCM, 2008); Nghe trăng (Văn học, 2009); Gọi thầm (Hội Nhà văn, 2013); Mắc cạn (Hội Nhà văn, 2018), là sự kết tinh những rung cảm, suy tư, trăn trở từ khối óc, trái tim của chị trước thế thái nhân tình. Chỉ cần đọc tựa đề những tập thơ, ta sẽ cảm nhận được một điều gì đó không trọn vẹn, vỡ tan, trắc trở, trái ngang của thân phận lưu đày từ/ và một cái tôi lẻ loi, cô độc. Đây, chính là căn nguyên tạo nên nỗi ưu tư trần thế trong thơ chị.

Chứng kiến những trái ngang không thể lý giải được trước bi kịch của đời sống, khi mọi giá trị đang bị đảo lộn trước sức mạnh của đồng tiền, chị đã xa xót thở than hết sức thành thật: “Xoay vận được không khi đồng tiền lên ngôi / Xé toạc hết mọi nghĩa nhân – ân – tín! (Đau lắm). Bài thơ có tên khá chân mộc nhưng đã chạm được tầng sâu tâm thức người đọc. “Đau lắm”!? Đó là nỗi đau không chỉ của riêng thi nhân mà là nỗi đau của những con người có lương tri trước những “đảo điên” của thế sự, khi đồng tiền đã trở thành một thứ độc dược giết chết mọi nghĩa tình. Xưa, tiền nhân cũng đã cảnh báo “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”, và nay liệu có khác gì xưa!? Nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai, vì thế, luôn mặn chát chất “đời” và nằm trong dòng chảy của những giá trị nhân bản ở thơ ca dân tộc và nhân loại. Bởi, với ý thức của một nghệ sĩ cầm bút, chị đã tự nguyện dấn thân, sẻ chia với sự bất hạnh của những người nghèo khổ: “Không ai nhờ cũng ôm cũng gánh/ Không ai khiến cũng khóc cũng cười/ Cả một đời thương vay khóc mướn/ Nỗi đoạn trường bèo bọt phận người (Nghề của tôi). Bài thơ “Nghề của tôi” cũng như bài “Đời cầm bút” là một lời “tuyên thệ” của chị về sự xác quyết tinh thần “dấn thân” (J.P.Sartre) hay “xuống thuyền” (Albert Camus) đối với người nghệ sĩ trước phận số của nhân quần mà chị luôn trăn trở. Không có ý thức “dấn thân” này sẽ không có những nỗi ưu tư trần thế đắng lòng trong thơ Trương Tuyết Mai.

Phàm là nghệ sĩ chân chính, có lương tri, biết sống và viết vì con người, không ai lại không có những trăn trở trước thế thái nhân tình. Bởi vậy, cách đây hàng trăm năm, nhà thơ Tú Xương đã tự thán: “Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn/ Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn/ Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng/ Nhạt phèo quang cảnh bóng trăng suông” (Đêm buồn). Có thể nói, nỗi buồn, niềm đau trước sự thế nhiễu nhương là một hằng số văn hóa trong thơ ca chân chính như Trương Tuyết Mai đã tâm niệm: “Nàng đi gom nhặt chuyện đời/ Để nghe bao nỗi khóc cười nhân gian/ Để thấu đời lắm trái ngang/ Để thương hết dạ gian nan phận người” (Gom nhặt). Và những điều trái ngang này được thi nhân minh chứng với bao khắc khoải, ưu lo, với biết bao câu hỏi mà câu trả lời chỉ là những ảo vọng xa mờ: “Bao đời bao kiếp hạt lúa củ khoai/ Bỗng dưng thất nghiệp – hỏi trời tại ai? (Bỗng dưng), để rồi, cũng như bao người có lương tri, thi nhân đành bất lực nhìn những cảnh trái ngang cứ diễn ra trước mắt mình mà than thở: “Sao mãi tồn tại nhiều bất công, oan trái/ Sao nhiều nỗi đau và nước mắt ngược dòng/ Sao buồn thế? Nỗi niềm ơi – buồn thế!/ Đâu phải điều người nằm xuống hằng mong!” (Chút tâm tư). Song, đâu phải chỉ có người nằm xuống mới mong cuộc sống không còn những bất công mà cả những người còn sống, hàng ngày đang lăn lộn trong cõi nhân sinh vẫn ước mong, nhưng nào có được đâu!? Và ước mơ, khát vọng cứ mãi vẫn là ước mơ và khát vọng treo lửng lơ trên cây thập giá đời…

Trước những điều phi lý, thi nhân cũng có lúc muốn buông bỏ tất cả để “cho lòng thảnh thơi” như chị đã tự thú: “Oằn vai nàng gánh nàng gồng/ Sao không buông bỏ cho lòng thảnh thơi?/ Gánh đời nặng lắm người ơi/ Sâu – dày – ân – nghĩa – khóc – cười – bể dâu” (Gánh đời nặng lắm) và chị muốn: “Quẳng hết gánh đời cho nhẹ tênh bao nỗi/ Ôm giữ hoài chi những oan trái thế nhân!” (Bất lực). Nhưng rồi, trách nhiệm của nhà thơ với cuộc đời khiến thi nhân không thể “từ bỏ” những nỗi lo toan trước phận số con người và điều này làm cho nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai càng sâu nặng hơn như chị đã ý thức: “Vẫn biết kiếp tằm phải nhả tơ/ Vần thơ gan ruột tươi màu huyết/ Bện dệt buồn vui thẳm phận người” (Nhà thơ). Có thể nói, thơ viết về thế sự là những bài thơ thể hiện khá phong phú cảm thức ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai mà người đọc có thể nhận biết qua cách tác giả đặt tên tập thơ là Gập ghềnh khúc đau. Cuộc sống đời thường nếu gặp những “gập ghềnh” cũng làm cho con người chông chênh, chao đảo, vậy mà ở đây là “khúc đau gập ghềnh”, thì tính bi kịch của đời sống đã được đẩy đến tột cùng, tên gọi tập thơ, vì thế đã chất chứa nỗi ưu tư trần thế đầy ám gợi trong tâm thức người đọc như một dấu ấn mỹ cảm khá tinh tế khi sáng tạo hình tượng thơ của thi nhân.

Nhưng nỗi ưu tư trần thế ấy, không chỉ hiện hữu ở những bài thơ thế sự mà còn được soi chiếu từ một góc nhìn khác trong thi giới Trương Tuyết Mai, đó là những niềm khắc khoải trong thơ tình của chị mà theo tôi, cái “hồn cốt” của thơ Trương Tuyết Mai là ở những bài thơ tình, nhất là những bài thơ nói đến nỗi đau trước những mất mát, tan vỡ, bất hạnh trong tình yêu. Những bài thơ này không chỉ đơn thuần là tình yêu mà còn là những vấn đề của thân phận, của thế thái nhân tình. Và từ những trạng thái cảm xúc này, ta sẽ thấy rõ hơn bản thểnhân vị của một Trương Tuyết Mai nghệ sĩ mà ở đó có sự kết hợp hài hòa, tinh tế giữa con người nhạc sĩ và con người thi ca. Đọc nhiều tập thơ của chị, tôi nghĩ, phải chăng, chính sự hợp hôn nhiệm mầu giữa thi ca và âm nhạc là căn duyên để một người ở vào “tuổi xưa nay hiếm” như chị viết được những câu thơ tình đắm đuối, nồng nàn và đầy khát khao nhưng thấm đẫm vị nhân sinh như: “Hãy nép vào mong manh cho mau thành cát bụi/ Để không còn khát thèm một điểm tựa trần gian” (Khát). Hãy tin vào tình yêu, bởi, chỉ tình yêu mới đem đến cho con người ý nghĩa của cuộc sống. Tình yêu trong thơ Trương Tuyết Mai, vì thế là một vấn đề của nhân tính, nhân tình, nhân tâm nơi con người nên cũng là một bình diện của nỗi ưu tư trần thế trong thơ, để lại những nghĩ suy về cuộc đời, về thế sự, nơi người tiếp nhận như suy ngẫm của chị: “Người thường chết vì của/ Chim thường chết vì mồi/ Ta vì tình đắm đuối/ Chết một đời chưa thôi” (Ngẫm).

Quả thật, khi đã yêu và nếu đó là một tình yêu đúng nghĩa, không phải là một thứ tình yêu gian dối thì người ta phải “Chết một đời chưa thôi” chứ không thể “chết một lần rồi thôi” như người ta vẫn nghĩ. Những câu thơ này không chỉ là thơ tình yêu mà còn là cuộc sống, là thân phận, là thế thái nhân tình, là những giá trị nhân văn mà chúng ta cần trân quí, giữ gìn.

Tình yêu là thế. Nó luôn song hành với sự bất tử, sự tận hiến, sự đam mê. Tình yêu chân chính, đúng nghĩa không chịu sự sắp đặt và áp chế của bất cứ quyền lực nào, cho dù đó là quyền lực của Thượng Đế. (Vậy mà có một thời, người ta buộc tình yêu phải có “tính này”, “tính nọ”, biến con người trở thành một thứ robot không tim khi yêu). Vì thế, cùng với sự hiện hữu của con người trong cõi nhân sinh, tình yêu luôn đặt ra cho con người những trăn trở, những ưu lo, những khắc khoải: “Đã biết giếng không sâu mà vẫn thả dây dài/ Sợi dây tôi mắc cạn giữa muôn vàn rỗng không” (Mắc cạn). Cái cảm giác “mắc cạn giữa muôn vàn rỗng không” đó, nhiều khi cũng đẩy con người vào những nỗi đau trong tình yêu và đây cũng là một phương diện của kiếp nhân sinh mà con người phải đối diện, phải gánh chịu. Thơ tình yêu của Trương Tuyết Mai, bên cạnh những khắc khoải, lắng lo, ưu tư còn là những ước mong được góp nhặt hạnh phúc cho dù đó là những hạnh phúc muộn màng từ những mảnh vỡ cũ xưa: “Ta đi mót lại tình xưa/ Gom từng mảnh vỡ dẫu chưa nguyên lành/ Dù trong dù đục cũng đành/ Chút tình gom nhặt cũng thành tơ duyên” (Chút tình gom nhặt). Và rồi trong những cố gắng “gom nhặt ấy”, có khi chị đã gặp bi kịch và phải trả giá cho những “đam mê”, “khao khát” của mình, để rồi phải sống trong sự thị phi trước tình đời đen bạc. Nỗi nỗi ưu tư trần thế trong thơ Trương Tuyết Mai vì thế, lại thêm vị đắng: “Nàng là kẻ u mê không lối thoát/ Nuôi dưỡng hoài nỗi khát khao lầm lạc/ Chấp chới không thôi cuộc tình đen bạc/ Ngậm ngùi trắng tay lầm lũi một mình” (U mê). Và có khi, thi nhân muốn chạy trốn thực tại, tìm vào giấc mơ mong được phút bình yên nhưng tất cả cũng chỉ là ảo vọng: “Trốn thực tại nàng ẩn mình vào ảo/ Đâu ngờ trong mơ cũng lắm bẽ bàng” (Đâu ngờ). Bởi, dù chị cố gắng đi tìm, kể cả tìm trong mơ thì “Một bờ vai cũng không thể có/ Biết tựa vào đâu/ Tựa vào bóng – bóng giống ta xiêu đổ/ Tựa vào mơ – mơ đã vỡ từ lâu” (Tựa vào bóng). Tình yêu trong thơ Trương Tuyết Mai, luôn để lại dư vị khổ đau của kiếp nhân sinh là thế!?…

3. Thơ là thế giới tâm cảm của thi nhân trước cuộc đời, ở đó nhà thơ sẽ giãi bày những suy tư, trăn trở của mình về cõi nhân sinh. Thơ Trương Tuyết Mai cũng không nằm ngoài tâm thức này. Đọc Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai, đúng như tên gọi tập thơ, người đọc sẽ cảm nhận không chỉ nỗi đau mà còn cả những chông chênh trong tâm hồn và cuộc đời của thi nhân trước những “bão giông” trần thế. Gập ghềnh khúc đau vì thế, là kết tinh những khắc khoải trong suốt hành trình sống và sáng tạo nghệ thuật của thi nhân. Đây không chỉ là sự tổng kết những suy nghiệm của nhà thơ về cuộc đời, về thế sự, về nhân sinh mà còn là một sự thay đổi thi pháp trong sáng tạo thơ ca của Trương Tuyết Mai, khi chị chọn viết những bài thơ ngắn, một thể thơ không phải dễ làm, nếu người viết không có một sự trải nghiệm cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Rất may, ở tập thơ Gập ghềnh khúc đau, ta thấy Trương Tuyết Mai hội đủ những yếu tố này nên cũng gặt hái được một số thành công trong chọn lựa đề tài, thể hiện cảm xúc. Tuy nhiên, thể thơ ngắn đối với chị, có lẽ chỉ là sự thử nghiệm bước đầu, nên không tránh khỏi những giới hạn trong việc lập ý, lập tứ, sử dụng ngôn ngữ và kiến tạo nhạc điệu trong thơ. Nhiều ý thơ chưa có độ chín của tư duy và chiều sâu tâm hồn, còn dễ dãi trong biểu đạt cảm xúc và tư tưởng nên chưa chạm đến chiều sâu mỹ cảm nơi người đọc như: “Cứ thế mỗi ngày chẳng chút đớn đau/ Ta đã âm thầm trượt qua nhau” (Trượt); Hay “Ôi tình yêu! Tình yêu huyền diệu/ Ta của nhau một thoáng cũng nhiều/ Cũng đủ ấm lòng những chiều quạnh hiu” (Huyền diệu)…

Song, cho dẫu vẫn còn những điều chưa hoàn thiện nhưng Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai cũng đánh dấu một sự thay đổi đáng quí trong thi pháp của chị. Điều này cho thấy ở chị một khát vọng sáng tạo để đổi mới hành trình nghệ thuật của mình. Đây là một phẩm tính không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Thế nên, Gập ghềnh khúc đau của Trương Tuyết Mai đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn khó mờ phai mà rõ nhất là những khắc khoải của chị về nỗi ưu tư trần thế. Vì vậy, có thể nói, đây là tập thơ mà khi đọc và ngẫm ngợi, chúng ta sẽ tìm thấy những điều có thể sẻ chia với thi nhân trước những ưu lo trong cõi nhân sinh mà chính ta đang từng ngày, từng giờ đối diện với nó dù muốn hay không!? Tập thơ là những tình cảm chân thành về những nỗi ưu tư trần thế của một hồn thơ trong trẻo, hiền lành như chính thi nhân đã xác tín một cách đáng yêu: “Nàng như viên cuội trắng/ Mãi lăn theo dòng đời/ Dù dòng trong hay đục/ Vẫn là cuội trắng ngời. (Viên cuội trắng)…

Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, Đầu mùa mưa, 18/6/2020

T.H.A

*Gập ghềnh khúc đau, Thơ Trương Tuyết Mai, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2020

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm