TIN TỨC

“Giấc mơ của một loài cỏ” xanh đầy hồn tôi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-18 00:08:25
mail facebook google pos stwis
1273 lượt xem

Nhân đọc tập thơ Giấc mơ của một loài cỏ của Thèn Hương

Thèn Hương – một nhà thơ dân tộc Nùng ở Tuyên Quang, là cái tên rất mới trong giới cầm bút hiện nay, cô vừa cho ra đời tập thơ – trường ca đầu tiên mang tên Giấc mơ của một loài cỏ (Nxb Hội Nhà văn, 8.2023). Đây là thi tập giàu nội hàm văn hóa và cách triển khai gợi nên nhiều ấn tượng với độc giả. Với chủ thể là Cỏ – Giấc mơ của cỏ, cô đã hình tượng hóa mang số phận con người, mà cụ thể là những cô bé vùng cao với nhiều sắc tộc Kinh, Tày, Mông, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu… đã sống, đã tồn tại, đã ước mơ, đã thất bại, đã yêu thương như thế nào trên các bản làng miền núi phía Bắc sương giăng và núi đá.  

Tập thơ – trường ca Giấc mơ của một loài cỏ

Thèn Hương tên thật là Thèn Thị Hương, sinh 1983, cô mang dòng máu của Tày và Nùng, lớn lên theo đường Then và tiếng đàn tính trên đất Tuyên Quang với nhiều ngọn núi cao, có sông Lô và sông Gâm uốn lượn, với hồ Nà Hang, thác Mơ,… tất cả đã tạo nên một giọng thơ dường như khác biệt với người viết hiện tại dù là miền xuôi hay miền núi nơi cô đang sống.

Giấc mơ của một loài cỏ gồm 44 bài được viết bằng thể tự do, dài ngắn đan xen, phóng khoáng và hồ hởi vui buồn, câu ngắn nhất 01 chữ, câu dài nhất 48 chữ. Tập thơ được chia làm 03 phần: Tam tấu tôi – Giấc mơ của một loài cỏ – Thổ cẩm về xuôi, mỗi phần được sắp xếp đầy dụng ý và nhiều công phu của tác giả.

Mở đầu thi tập, Thèn Hương chưa vội bàn đến Cỏ, mà như để có một nền tảng, cô đã tách mình ra “Tam tấu tôi”. Thoạt nghe như có phần lý tính khi cô tự chia bản thân thành ba phần, với định lượng, tính rõ ràng, nhưng chưa hẳn thế, ta hãy nghe tiết tấu nào được “thổi lửa” đầu tiên đã: Tôi luôn nặng trĩu/ nhà tôi rộng nhưng lòng tôi chật hẹp/ xe tôi nhanh mà ý nghĩ rùa bò/ trang sức không làm tôi lấp lánh/ hồn tôi đầy ngõ tối quanh co// tôi muốn xóa bỏ tôi của ngày hôm qua/ tôi cần phiên bản mới… (Tôi và giọng nói nhỏ) - Đấy là một xác quyết ngay những chữ đầu tiên mà Thèn Hương đã dùng để mở ra một giấc mơ. Và không thể khác hơn, làm mới mình là khao khát muôn đời của người mang lòng sáng tạo, cho dù sự sáng tạo đó bằng cách này hay cách khác đều bắt đầu bằng nhu cầu tự làm mới mình. Và như hiểu rõ điều đó, thi sĩ của chúng ta tiếp diễn cuộc “hành hương về phía mình”, cô muốn hiểu bản thân từ những tiếng khóc đầu đời đến hơi thở hiện tại, cô đã “Trở lại trinh nguyên” trong tiết tấu thứ hai như sau: Em lách qua khe cửa hẹp giữa hai mùa đông, xuân/ cất cuộc tình buồn dưới vệt chân chim/ thu nước mắt vào đôi tay gầy guộc/ giấu thăng trầm cuộc đời trong mái tóc/ trở về… như một hướng đi được ấn định của muôn đời thi sĩ, để tiến xa hơn, đầu tiên ta phải quay về với chính bản thân để tìm chân giá trị bản ngã mình. Chưa hẳn là trở về để suy xét, nhưng thật cần thiết khi trở về để mang đi, thứ hành lý mà sơ khai mạch nguồn cuộc sống đã phó thác vào ta trong đêm trở dạ của mẹ. Với vốn liếng đó, nhà thơ đã phổ giấc mơ của mình vào cỏ, vào giấc mơ cỏ và vào giấc mơ của các cô thiếu nữ trên đã tai mèo ngàn năm ở vùng núi Tây Bắc này.

Nhà thơ Thèn Hương

Ở phần II, trường ca Giấc mơ của một loài cỏ, để bắt đầu cuộc hành trình của Cỏ cũng như của chính mình, nhà thơ đã phác họa nguồn gốc Sau đại hồng thủy// cỏ mọc lên. Vậy chăng Cỏ đã luôn mang giấc mơ bao đời nay để sống, để nảy nở, tàn lụi và cuối cùng để xanh lên, nhất thiết không phải từ tác giả, nhưng tác giả đã cho mình được dự phần vào sự tồn vong, quá trình hành hương của giấc cỏ, để tìm ra một sự khác biệt nào đó, vả chăng, chính tác giả là sự khác biệt: Một giấc mơ khờ khạo/ khi cánh rừng già bỏ đi/ bỏ đi nghiến, lim ngàn tuổi/ tảng Hin Mạ đầu nguồn bỏ đi// cỏ thấy nhiều giấc mơ bỏ đi// chẳng hẹn ngày về… – (Đi hay ở lại). Khi cất tiếng khóc chào đời chúng ta đều vô danh, không tên không tuổi, không danh không phận, như cỏ vậy, không ai vội đặt tên, nhưng có là gì cái tên có thể đổi dời khi không gì là chắc chắn kể cả hơi thở này. Thèn Hương cũng hiểu điều đó, cô trở về với vô danh, từ vô danh sẽ mơ những giấc mơ đầu sau tiếng khóc chào đời giữa đại ngàn xanh thẫm: Cỏ ước một tên gọi/ cỏ thèm tờ giấy khai sinh/ cỏ muốn bay/ cỏ mơ giấc mơ của cỏ/ dù mang thân bé nhỏ/ dù không họ không tên/ cỏ vẫn là mầm sống/ cỏ vẫn cần mọc lên. – (Vô danh cỏ).

Cỏ không là một ai cụ thể nhưng luôn là ai đó khi cần, khi bị vùi dập hay muốn xanh lên, vươn lên. Ở giữa núi đá, quanh co rừng già, cỏ là những cô gái Thái, Tày, Nùng Mông, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu mới lớn. Cỏ là những mảnh đời như Mảy 15 tuổi không biết đến con chữ, mang cái bụng thật thà, mái tóc đuôi bò xuống phố; là Luyến ở giữa ruộng vườn nhưng ủ giấc mơ VAC không bao giờ thực hiện được, do đa mang cơ nghiệp nhà chồng// thuốc thang cho bố mẹ/ Luyến/ khóc thêm một giấc mơ; là Mây cô gái Nùng Xí Mần đỗ đại học duy nhất bản trong mấy ngọn núi này, là Mây cũng thường thôi/ như khối bạn sinh viên nơi đây/ sẽ chẳng có gì là đáng kể/ nếu không một lần/ Mây hủy hôn ước/ cho/ giấc mơ; là Dì Lèng, là Lục lấy thanh xuân vượt qua số phận để tìm hạnh phúc; và cả thầy Phà chao chát với nghề giáo vùng cao khi được đo bằng sợi dây đánh giá mang từ thành phố: Cơn gió cải cách giáo dục đâu len tới bản làng xa xôi/ giáo án mẫu thầy chưa tuân thủ/ dạy trẻ người Mông đâu giống trẻ dưới xuôi// ba lần dự giờ// không đạt chuẩn/ đề nghị nghỉ hưu sớm… Tất cả những mảnh đời trên núi, gắn bó với núi đó đều được Thèn Hương đưa vào giấc mơ của cỏ. Họ có điểm chung là xuất phát từ nghèo đói túng quẫn, nhưng họ không để giấc mơ mình bỏ ngỏ, họ sẵn sàng đốt cháy để được tái sinh, được xanh lại lần nữa. Nhưng không phải giấc mơ nào cũng đẹp, ánh trăng nào cũng viên mãn tròn đầy, có những ra đi vào lầm lỡ, có những hôm dậy thì buồn ghê gớm… Và cỏ được đặt tên/ Hoàng Thảo, Giáng Hương, Ngọc Thảo, Hồ Điệp và bao nhiêu tên nữa/ cỏ được đổi chác, được trả giá cao, cao hơn nữa… (Đi tìm đất sống).

Chao chát đấy, đắng cay đấy nhưng chúng ta âu cũng phải như cỏ, sau bão giông vẫn nảy mầm, sau bao nát nhàu ngày gió vẫn hát ca đời mình, vì cốt yếu hơi thở này không hoài phí, sự sống này có lý do… đó là hơi thở của phần III – Thổ cẩm về xuôi.

Những gian truân của Cỏ đi định danh mình, hay nói cách khác, tìm lẽ sống của đời mình, Thèn Hương đã dẫn ta đi một vòng rất xa, từ hồng hoang sơ khai đến bao thế hệ sắc tộc “sống trong đã và chết vùi trong đá”, với đầy ắp những nghi lễ của Then, của đàn tính, của khăn piêu, váy cốm, điệu khèn,… và giờ cô tìm gặp mình, định danh được mình trên chính mảnh đất nơi cô sinh ra, chính nhúm đất mà cỏ vươn mầm chồi dậy: Cỏ thảng thốt/ sao trước đây tôi không nhận ra/ quê mình đẹp thế// khi tôi sinh ta/ ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đúng mùa lúa chín// có dòng Lô trong xanh, rêu phong thành cổ// bay vút lên lời Then, lời Cọi// có cổng trời Quản Bạ// có cao nguyên đá Đồng Văn// thiêng liêng cột cờ Lũng Cú// máu lửa và nước mắt viết nên bản hùng ca// và rồi/ cỏ không cần nữa/ giấy khai sinh – (Quê nhà tìm thấy). Có thể nói quê hương luôn chữa lành mọi vết thương đời ban tặng, quê hương là tổ ấm, là nơi xoa dịu những mộng mị băn khoăn, nhưng phàm những gì gần gũi, vô cầu quá ta lại không lưu tâm đến nó, đến khi cuộc ra đi, truy lùng và vượt thoát diễn ra trong bản ngã làm ta nguy nan, khi ấy bất giác nơi phía làng lại cho ta cảm giác an toàn nhất.

Mô típ anh hùng ca, hành hương này không mới, đó là mô típ được diễn ra trên ngọn nguồn các dân tộc kể cả phương Đông lẫn Tây, nhưng phải thừa nhận rằng với quá trình ra đi – vượt thoát – tìm thấy – về lại và thở của Thèn Hương đã mang dấu ấn riêng biệt. Sự riêng biệt đó không phải ở cách đi, mà ở ngay sắc tộc của cô, ở nơi cô sinh ra và lớn lên, mang khát khao, ước muốn, âm giọng, màu áo chàm… của cộng đồng người miền núi phía Bắc đã làm nên một Thèn Hương khác lạ, đó là: Ba tháng ngô – trăm ngày lúa/ 300 lần chào mặt trời nái trâu sinh nghé/ 3 năm cây sơn chảy nhựa/ 5 năm keo lai nên rừng (Rể đời); đó là lời Sình Ca vang vang/ điệu Chim gâu, Xúc tép, Cầu mùa// buồn như nàng Lưu Ba thủa ấy… (Vũ điệu Cao Lan). Với những kí tự đẹp của truyền thống Thèn Hương đã thổi vào âm hưởng hiện đại, cô bày giấc mơ của mình mang dáng dấp ông cha nhưng lại bằng lời nói của Thèn Hương hiện tại, sự kết hợp đầy quyến rũ của giấc mơ đậm văn hóa cộng đồng người dân tộc vùng cao với sự tự do của ngôn ngữ, thi pháp mà thi sĩ triển khai đã tạo nên sự cuốn hút với ánh sáng kỳ lạ. Đó là ánh sáng của giấc mơ, của môi cười: Đã qua bao nỗi tháng năm/ đã đi khắp nẻo bản làng quê hương/ đã ôm ấp vạn tâm hồn/ đã cay đắng/ đã thảo thơm khóc, cười/ hôm nay/ thổ cẩm về xuôi// môi cười/ trong sáng thơ ngây/ thổ cẩm em nắng ấm đầy hồn tôi – (Thổ cẩm về xuôi).

Khép lại tập thơ – trường ca Giấc mơ của một loài cỏ, Thèn Hương đôi khi đã làm tôi tiếc nuối. Tiếc vì những âm hưởng ấy sao không dài ra thêm mà chỉ có 44 khúc, sao không cho tôi thêm vài kí tự văn hóa nữa, tôi chưa muốn về xuôi, còn mê mải trên đá tai mèo và mùa hoa lê trắng phủ hoang vu lên vách núi. Phần tôi lại tiếc vì ở một vài câu kết trong các bài của cô còn dễ dãi, chưa thật lắng đọng, chưa gợi đến tôi phải đau hay nghĩ về nó, đôi chỗ chốt còn vụng về làm đứt giấc mơ tôi lưng chừng lữ thứ… Nhưng đây chỉ là thi tập đầu tiên của cô, để lại sự tiếc nuối đôi lúc cũng hay, vì chí ít, tôi còn nuôi được mộng. Giấc mộng của sự cho đi, sự kỳ vọng, tha thứ, kiêu hãnh và đôn hậu như cỏ, như Thèn Hương đã phổ vào tập này: Thì thầm với nắng/ rì rầm trong mưa/ ai hiểu lời hát/ xanh qua bốn mùa – (Cỏ hát).

Theo Trần Đức Tín/ Báo Ngày Nay

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm