TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường

Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-29 16:41:21
mail facebook google pos stwis
450 lượt xem

NGUYÊN BÌNH


Tôi chợt nảy ra ý định viết đôi dòng cảm nhận về tập thơ “Biên bản thặng dư” (BBTD) của nhà thơ Phùng Hiệu (PH) sau khi tham khảo các bài viết của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tiếng tăm trong cả nước (Nguyễn Quang Thiều, Lê Thiếu Nhơn, Bảo Trung v.v) về BBTD (Nxb HNV 2019). Là một cây bút không chuyên, tôi muốn trình bày cách tiếp cận BBTD dưới dưới góc nhìn từ đời thường.

Nhà thơ Phùng Hiệu và bìa tập thơ "Biên bản thặng dư"

Đại thi hào Gớt nói: “Thế giới rộng lớn, phong phú và cuộc sống đa dạng tới mức sẽ chẳng thiếu gì nguyên cớ để làm thơ. Nhưng tất cả các bài thơ phải được viết ra “vì nguyên cớ” (nhân cơ hội), nghĩa là hiện thực phải tạo ra nguyên cớ, chất liệu để làm việc đó. Cơ hội riêng lẻ trở thành chung và nên thơ bởi vì nó được nhà thơ gia công. Tất cả thơ của tôi đều là những bài thơ “vì nguyên cớ” (nhân cơ hội); chúng được hiện thực thôi thúc và vì thế có cơ sở”.

Tôi nghĩ nhà thơ Phùng Hiệu cũng vậy, anh lăn lộn nhiều trong cuộc mưu sinh, vừa là nhà báo, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, địa ốc và là người làm thơ trong một hiện thực xã hội CÓ VẤN ĐỀ. Vậy nên, chất liệu thi ca ngồn ngộn giữa đời thường, phản ánh ngổn ngang cái hiện thực sáng tối, đậm nhạt để tạo thành vòng xoáy nhận thức và cảm xúc trong tâm hồn nhạy cảm của một công dân có trách nhiệm. Thơ Phùng Hiệu bật ra những vần điệu trầm hùng và chát đắng trong hoàn cảnh như vậy. Trong suốt quá trình nghiền ngẫm tập thơ, trong tôi chợt lóe lên tia chớp: phải phân loại các bài thơ trong BBTD thành những nhóm nội dung, mặc dù sáng tác của anh là một thể thống nhất không nên tách rời. Nhưng không sao, tôi nghĩ một vài lát cắt đôi khi cũng làm rõ hơn những gì mà tác phẩm chứa đựng bên trong.

Nhà thơ Phùng Hiệu tại buổi ra mắt sách.

Tôi tạm xếp chung những bài có dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất Tôi, Ta, ở đó, nhà thơ nhận diện chính mình khi quan sát thế giới hổn tạp của thời đại, bao gồm : 1.Nhấp phím. 2. Ngôn ngữ lên ngôi. 3. Sự thật không thể bị giết chết. 4. Kẻ hở bình minh. 5. Nghịch lí viên gạch. 6. Giấc mơ hiện thực. 7. Sự giao cảm của tưởng thức. 8. Lửa - trên nóc nhà thế giới. 9. Âm vang của câu ca dao. 10. Ném đá. 11. Ngụy tạo. 12. Phía sau bức tường giải tỏa. 13. Sự lãng mạn của cái ác. 14. Nói với ngài. 15. Di Nguyện.

Nhóm thứ hai gồm 16 bài, là quá trình nhận diện hiện thực phủ phàng tạo giá trị thặng dư, bao gồm:1.Quét rác. 2. Tiếng nấc trong khu rừng cao su. 3. Biên bản thặng dư. 4. Cuộc mưu sinh. 5. Dấu chấm. 6. Tết của người công nhân góa phụ. 7. Phía sau ánh đèn lừa dối. 8. Sự mất tích của người công nhân. 9. Sa thải một cơn mơ. 10. Em vẫn lớn lên. 11. Dấu chân Bình Lộc. 12. Đằng sau tờ vé số. 13. Sau lưng tiếng kẻng công trường. 14. Phố ngập. 15. Bước tha phương. 16. Đứt cáp.

Nhóm thứ ba là những khúc thương ca cho đất nước nhược tiểu, bao gồm: 1. Em giữa miền Trung. 2. Bão lòng. 3. Quy hoạch tự do. 4. Nghĩ về quê hương tôi. 5. Tiếng rên gạch cát. 6. Với mẹ. 7. Điểm danh quá khứ. 8. Cánh chim bám biển. 9. Các anh không về mắt đảo rưng rưng. 10. Biên bản chủ quyền.

Mời bạn cùng tôi dạo đọc thơ anh:

1. Nhận diện

“Nhấp phím/ những con chữ nhảy múa trên cánh đồng ngôn ngữ/ cho cảm xúc tuôn, cho lãng mạn trào/ mơ về em/ ta mới biết cuộc đời còn có tình yêu và câu thơ sót lại”. (BBTD, tr 9).

Vâng, cái sót lại sau cùng vẫn là tình yêu và câu thơ, sau bao lần nhà thơ nhấp phím xâm nhập vào mọi ngõ ngách của thế giới đương đại đa chiều hỗn mang, để niềm tin vào cuộc đời trong tâm hồn thi nhân vẫn là giá trị vĩnh hằng, được nhà thơ khẳng định một lần nữa trong bài Ngôn ngữ lên ngôi:

Tôi nghĩ thế giới này có thể mất đi/ Nhưng còn lại vần thơ nhân cách”. (BBTD tr11).

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận định: “Đây thực sự là một định nghĩa thơ của nhà thơ Phùng Hiệu” (BBTD, tr 6).

Nhà thơ nhận diện sự thật của xã hội đương đại như một tai ương, thế giới mà anh đang sống đầy dẫy dối lừa, công lý bị bóp méo tàn nhẫn:

Tôi đi tìm công lý/ Tin chắc ở phía chân trời có ánh bình minh.” Thế mà, hỡi ôi, nhà thơ lại băt gặp: “Nhưng khi vừa đến chân trời tôi chạm phải bóng đêm”.

Nơi đó, “lương tri lộ diện”, cái lộ diện chắc chắn ko phải là những tia nắng ấm tốt lành, mà chỉ là “hành trình giả tạo”. Khi vấp phải nghịch lý viên gạch, Phùng Hiệu viết:

Khi những viên gạch vỡ ra/ là lúc bức tường bê tông rắn lại” Anh thấy gì?

“Trên công trường quy hoạch tự do/ Những viên gạch tiếp tục vỡ ra, Hành trình chưa khép lại”. BBTD, tr 21)

Hành trình nào? Có phải là hành trình số phận của con người đang chen lấn, ép sát vào nhau giữa những bức tường bê tông tua tủa mọc lên từ “những cánh tay quen thuộc tìm về”? Để rồi, trong anh, đau đáu một giấc mơ, giấc mơ chua chát:

Giấc mơ tôi được làm người/ một con người thật sự tự do” nhưng khốn khổ thay, giấc mơ ấy chỉ “được hình thành trong tiểu thuyết chiêm bao”

Tại sao vậy? đây là câu trả lời, như một lời buộc tội, như một cáo trạng cho các quan tòa:

Bạch ngài/Một khi thế giới vô hình không đủ sức dọa nạt ác nhân/ Thì hữu hình tất nhiên trả giá.” Đó là những “đố kị, tranh giành, đua chen, đốp chát”, khi mà “con người luôn ném đá về nhau”.

Vậy thì, cái gì còn lại, cái gì đáng để tôn vinh, tôi nín thở lắng nghe nhà thơ giải bày:

Hãy trở về với lãng mạn trường thi/ Để một ngày ta nhận thấy, Để một năm ta nhận ra, Sự lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Chỉ có thể làm nên tên tuổi.”

Tôi thở phào nhẹ nhỏm, dẫu sao, chúng ta và nhà thơ cũng còn một con đường, một lối đi nhân cách. Xin phép được mượn lời tác giả Bảo Trung trong bài báo “Ánh sáng phía sau dòng lệ” (GDTĐ, tr 26): “Phùng Hiệu tìm đến sự giải thiêng cho những sự thật, lật tẩy để thanh tẩy bao ngụy tín trong cuộc sống đang tăng tốc phi mã trong vòng xoáy của vật chất, của những toan tính thực dụng…”

2. Hiện thực tạo giá trị thặng dư trong BBTD

Mười sáu bài thơ, như là một tập hợp đầy bản lĩnh của nhà thơ, phản ánh hiện thực xã hội Việt đương đại. Xin được trích trong bài tựa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều :

“Anh đã dối mặt với những bất hạnh và bất công mà không hề sợ hãi và anh đã thi ca hóa được những thô nháp, trần trụi của đời sống. (“Sự thật của nhà thơ” , BBTD, tr 7).

Tôi đồng cảm với tác giả bài viết, và cho rằng, Phùng Hiệu lượm nhặt chất liệu cuôc sống hết sức chọn lọc và tinh tế. Đôi mắt anh bừng sáng để xoáy sâu đến tận cùng khi nhìn về những mảng tối nhạt nhòa của bóng đêm. Những mảnh đời rách bươm, những bàn tay tóe máu nhọc nhằn lao khổ được anh thi ca hóa, không phải để làm nền cho thơ anh khác lạ, hiếm hoi trong trường chữ nghĩa hiên nay, mà chính là cứu cánh cho lương tri hướng về những con người lao động nghèo khổ, những người không hề biết mình đổ mồ hôi và máu xương để cho các thế hệ hôm nay và mai sau lập BBTD, là bản cáo trạng cho xã hội đầy dẫy bất công:

"Chị quét cả đời nhưng rác chảy về đâu? …Đến cuối cuộc đời người ta quét chị ra/ Vì ngỡ rác trong khu nhà ổ chuột! (Quét rác. BBTD, tr 13)

Phùng Hiệu đã nhìn thấu suốt cả cuộc đời chị công nhân quét rác, và nhà thơ cũng cho chúng ta thấy cách đánh giá của anh về những chủ nhân ông của chị, sử dụng chị để tạo ra giá trị thặng dư, đã coi chị là cái gì, sẽ đền ơn đáp nghĩa với chị như thế nào? Không có một tâm hồn mẫn cảm và đầy cảm thông, không cùng sống chết với những con người lam lũ, người ta không thể nào viết lên những câu thơ nhu thế.

Chị bấu vào chỉ số thặng dư/Tờ văn bản được ghi bằng nước mắt/…Anh lê những bước chân về phía công trường/ Lót vào lòng nắm xôi lên giá.”/….Em cầm tuổi mười lăm/ Bước vào nhà máy/…Được cấp bằng “chiến sĩ tăng ca”….Thặng dư/ Thặng dư/Thặng dư./ ..Áp đặt lên những mảnh đời vô sản/ Biên bản ….thặng dư…”

Chúng ta còn có cơ hội thốt lên lời nào nữa? Những câu thơ của nhà thơ Phùng Hiệu đã là cục máu bầm của tình trạng xuất huyết nội, nhà thơ viết bằng chính bàn tay cầm công cụ của những người vô sản hiện đại, có khác gì của các tầng lớp vô sản thế kỉ trước? Vậy thì làm sao? Nói lên cái gì? Lí thuyết nào cứu rỗi cho họ? bàn tay nào nâng họ lên khỏi những vũng sình nhầy nhụa mồ hôi và nước mắt? Thượng tầng xã hội ru ngủ họ những gì? Hay bất công và lợi ích nhóm vẫn là những bàn tay bạo Chúa?

Và đây là thân phận các nàng Kiều thời đại, Phùng Hiệu không lột tả tâm tư nhức nhối của Kiều, nhà thơ thấy các em như là một biểu trưng cho thất nghiệp, cái trinh trắng rủ bỏ nhân cách vì bó tay trước cuộc đời, bởi bàn tay các em nhỏ bé yêu ớt quá, mà thế lực đồng tiền quá là “vĩ đại”, nó ngốn ngấu tất cả:

“Em cầm tấm bằng phổ thông rong ruổi…./ ở đây không nói chuyện học đường…./trong ánh đèn lừa dối/ nhan sắc được phô trương bằng những đường cong thân thể…/ em hiện diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng…” (Phía sau ánh đàn lừa dối. BBTD, tr 29.)

Tôi tạm dừng trích dẫn thơ Phùng Hiệu mà xin mượn lời nhà thơ Lê Thiếu Nhơn:

“Đọc tập thơ “Biên bản thặng dư”của Phùng Hiệu, cảm giác nặng lòng khó tránh khỏi. Thế nhưng, qua những câu chua chát lại thấy vẻ đẹp của nước mắt, qua những lời ai oán lại thấy sức mạnh của tình thương….” (Phùng Hiệu - Niềm riêng rét cóng từng ngọn lửa tàn - Lê Thiếu Nhơn, BBTD, tr 85.

3.Thương ca nhuợc tiểu

Mảng cảm xúc dành cho quê hương trong BBTD trầm hùng giai điệu của một bản thương ca, gióng giả lay động trái tim hàng triệu con dân nước Việt:

Thế kỉ trôi qua/ Biển Đông chưa có ngày yên ả/ Năm 1956/ Hoàng sa mất một phần máu thịt/… Năm 1974/ Bảy mươi tư người Việt hy sinh…../ Năm 1988/ Gạc ma hóa thành biển lửa…/ Năm 2013/ Với âm ưu đường lưỡi bò dối trá…/

Hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc ngàn đời luôn đe nặng lên đầu dân tộc Việt. Bao nhiêu lần đánh thắng kẻ thù là bấy nhiêu lần cống nạp, các vương triều quật cường Đại Việt xưa đã hiên ngang giữ vững cõi bờ. Nay, ý đồ bá quyền đại Hán lại đang thực hiện âm mưu thôn tính dần dần bờ cõi nước Nam. Đất và biển ngàn năm đang bị đe dọa, chúng đang tràn ngập lãnh thổ:

"Rồi một ngày bô xít Tây Nguyên/…Đất cát kêu gào đau rát giọt tài nguyên. Rồi một ngày chất thải Formosa….Biếtt bao giờ lãnh thổ được bình yên?"

Câu trả lời là đây, nhà thơ đã đến Colin, hòn đảo giữa Trường sa dài rộng hiên ngang:

Mặc cho những họng súng quân thù luôn khát máu/ ….Sáu mươi bốn anh hùng hóa đá giữ biên cương.” (Các anh không về mắt đảo rưng rưng.” (BBTD. Tr 74)

Những ngư dân bám biền cũng trở thành những người hùng giữ nước trong thơ Phùng Hiệu:

“Xác con thuyền chìm dần xuống đáy tự do/ Anh trồi lên bằng tinh thần “chiến binh bám biển”. (Cánh chim bám biển. BBTD. Tr72)

Ngoài ra, nhà thơ còn viết về người mẹ Việt Nam muôn đời lao nhọc nuôi nấng cả dân tộc lớn lên, (Với mẹ, Tr 59) những phút suy tư về thân phận quê hương nhược tiểu, (Nghĩ về quê hương tôi. Tr. 52) những cảm xúc đẹp thăng hoa từ câu ca dao ngàn năm vọng lại… (Âm vang của câu ca dao. TR 44)

Khi mới cầm trên tay và lướt đọc qua, ta những tưởng BBTD là một tập thơ gai góc, khó cảm thấu, khó nhập tâm. Thế nhưng, đi sâu vào những cảm thức mới mẻ trong thơ Phùng Hiệu, ta lại thấy ngời lên cái thiện tâm, vị tha, nhân bản và là tiếng nói của những nhà thơ biết đem thơ đến cho con người bằng tất cả yêu thương và hiến tặng.

Trân trọng giới thiệu BBTD đến với bạn đọc gần xa. Mong đón nhận những tập thơ hay của Phùng Hiệu trong thời gian tới. Chúc nhà thơ tiếp tục thành công trên sự nghiệp văn chương của mình.

Bà Rịa, ngày 27/11/2019
N.B.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm