TIN TỨC

Hồi ức chân thực của một người lính thời chống Mỹ cứu nước

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-28 09:08:15
mail facebook google pos stwis
4185 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

(Nhân đọc tập Ký - Tản văn Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng, Nxb Hội Nhà văn)

Tìm dấu chân xưa là tập sách thứ 5 của cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng. Có thể nói đây là tập sách mà Trần Ngọc Phượng giãi bày được nhiều hơn hết nỗi lòng của anh về những năm tháng gian lao, vất vả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Những người trực tiếp tham gia chiến đấu như Trần Ngọc Phượng còn sống sót và trở về sau cuộc chiến đó là điều may mắn, là niềm hạnh phúc vô bờ. Bởi còn biết bao nhiêu người đã ngã xuống vì sự bình yên, đẹp giàu của Tổ quốc khi họ chưa kịp gặp lại người thân yêu của họ. Thậm chí có người ra đi mãi mãi, cho đến hôm nay sau nửa thế kỷ vẫn chưa tìm được hài cốt...

Tập sách gồm 16 bài viết ghi lại những cảm xúc chân thực của chính Trần Ngọc Phượng về những năm tháng gian lao mà hào hùng, khi mà cả dân tộc phải oằn mình  tập trung tất cả cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là người lính, trực tiếp  tham gia chiến đấu trong những năm tháng ác liệt nhất nên những gì Trần Ngọc Phượng viết đều là những điều tâm huyết nhất, thật nhất, sống động nhất... về những gì anh đã trải qua, anh từng chứng kiến và nếm trải. Ở đó là những suy tư rất đời, rất người. Anh nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo và mang tính biện chứng cao. Với anh, nói hết những gì anh biết, anh nghe thấy, anh chứng kiến đó chính là nghĩa cử, là trách nhiệm; phần nào thể hiện sự tôn kính, sự biết ơn đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, đồng đội... của mình.

Những năm tháng ấy, chính là hành trang, là động lực, là sức mạnh, là niềm tin yêu bất diệt để anh sống, chiến đấu và làm việc hết mình cho đến ngày hôm nay. Thế hệ những thanh niên thời chống Mỹ cứu nước như Trần Ngọc Phượng thật đáng để chúng ta trân trọng, ngưỡng mộ và biết ơn. Bởi chính sức trẻ, sự nhiệt huyết và lòng yêu nước các anh đã gác lại mọi cái riêng tư cá nhân để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

Lòng yêu nước đã ăn sâu trong huyết mạch của người lính Trần Ngọc Phượng. Chính điều ấy đã thôi thúc anh sống trọn vẹn bằng ý thức, niềm tin và trách nhiệm công dân cao cả của mình. Phẩm chất của người lính bộ đội cụ Hồ, cốt cách của một người chiến sĩ kiên trung luôn thôi thúc Trần Ngọc Phượng phải sống, chiến đấu, làm việc một cách tốt nhất có thể trong khả năng và sự cố gắng của bản thân mình.

Những điều anh viết về những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, người đọc không khỏi rưng rưng xúc động. Chính người trong cuộc kể lại nên lại càng thuyết phục hơn. Những chi tiết, con người, hành động, việc làm cụ thể và cả những quan sát, theo dõi ở các chiến trường, trận đánh khác... cũng đều được Trần Ngọc Phượng xâu chuỗi và phản ánh một cách rõ ràng, mạch lạc. Tất cả đều như những thước phim tư liệu quý về một thời đoạn lịch sử hào hùng nhưng đầy bi thương. Bởi sự sống và cái chết mong manh, những mất mát về con người không thể nào kể hết, nói hết. Nỗi đau dai dẳng, chất chồng đến thời hậu chiến và sẽ kéo dài... Bởi chiến tranh là đi kèm với đau thương và mất mát. Vết thương chiến tranh, nhất là vết thương lòng sẽ luôn đeo bám với những người thân yêu, ruột thịt và cả những người đồng đội, đồng chí của họ may mắn còn sống đến hôm nay.

“Mậu Thân đi qua. Bao người ngã xuống để tạo ra thế đứng, một thắng lợi chiến lược được mang tính bước ngoặt của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Thế đứng ấy là dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ, là dáng đứng hiên ngang của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất...

Tiểu đoàn 605 của tôi vào Nam tháng 9 năm 1965, bổ sung cho Q5 (E5) công trường 5 (F5). Sau các trận Ông Đồn, Núi Đất rồi đến Mậu Thân, sống sót bị thương còn lại không đến trung đội. Có thể tôi là lính thông tin vô tuyến nên may mắn còn sống sót đến bây giờ.

Nhiều xác anh em còn lại trong thành phố. Hàng chục năm sau vẫn chưa tìm được hết các mộ chôn tập thể hàng trăm người ở Huế, ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất...

Rung chuyển non sông, chấn động địa cầu

Đồng đội tôi đã hy sinh dũng cảm

Chưa đến được tận cùng chiến thắng

Súng trên tay ôm mảnh đất quê hương

Bao máu xương tạo ra bước ngoặt

Thế tiến công, tạc dáng đứng Việt Nam

Bao xương cốt còn trong lòng đất

Những hố chôn tập thể vẫn đang tìm”.

Những gì anh nói, anh viết đều rất rõ ràng, rành mạch không hề giấu giếm cho dù đó có thể là niềm vui hay nỗi buồn. Với tư cách là một chiến sĩ cách mạng, Trần Ngọc Phượng luôn đấu tranh với bản thân mình trên suốt chặng đường chiến đấu. Đôi lúc quá khó khăn, nguy hiểm, đói rét, bệnh tật, lằn ranh giữa sự sống và cái chết cận kề nhưng không làm anh gục ngã, anh đã vượt qua chính mình để chiến đấu vì một ngày mai tươi sáng...

Trần Ngọc Phượng hồi tưởng: “Mậu Thân để lại bao kỷ niệm sâu sắc trong đời lính của tôi. Năm 1968 tôi được bầu là Chiến sĩ thi đua. Sau đợt xuống đường, tôi được kết nạp vào Đảng đợt 19/5 trong đợt tổng tấn công chồm lên đợt 2. Lễ kết nạp được tổ chức sau trận càn phản kích của địch đánh vào căn cứ Bảo Bình, Long Khánh. Dũng cơ yếu, người bạn thân thiết đã hy sinh ngay cạnh tôi vì mảnh pháo dọn đường của địch xuyên đúng vào tim.

Những năm 1969, 1970, 1971 tiếp theo tình hình rất căng thẳng. Ta lại phải bắt đầu xây dựng các cơ sở bị bể. Mỹ dùng chiến thuật không vận đổ quân bắn phá khắp nơi. Một số người không chịu được cực khổ, ác liệt đã ra chiêu hồi. Bọn chúng khai báo linh tinh, dẫn đường chỉ điểm. Cứ mỗi lần như vậy phải dời cứ đào hầm...

Năm 1972, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ, xe tăng ta đã tấn công giải phóng Bình Long, tạo điều kiện cho việc thành lập Thủ đô Lộc Ninh của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam và đàm phán tại Hội nghị Paris.

10 năm sống trong rừng, đã đi qua các chiến dịch Mậu Thân, Nguyễn Huệ, lòng bồi hồi xúc động trước cảnh tượng hùng vĩ của những đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Các đoàn quân nối tiếp nhau trùng trùng điệp điệp, xe pháo ầm ầm tiến vào năm cửa ô trong không khí hào hùng nổi dậy của nhân dân” (Ký ức Mậu Thân).

Thư nhà là bài viết gây được nhiều sự cảm thông và sẻ chia nhất từ bạn đọc. Đó là niềm vui, sự mong mỏi tin tức từ gia đình mà bao nhiêu năm qua Trần Ngọc Phượng không thể liên lạc được (do sự chia cắt và khốc liệt của chiến tranh). Năm 1973, Trần Ngọc Phượng nhận được bức thư của gia đình, tức là sau 8 năm đằng đẵng từ lúc anh lên đường vào Nam chiến đấu, đây là lần đầu tiên anh có thông tin từ những người thân yêu, ruột thịt nhất của mình. Những nét chữ của cha cùng với bao tin tức quý giá về gia đình làm cho tim anh thắt lại vì vui mừng. Cả nhà vẫn khỏe chỉ có điều có nhiều thay đổi sau gần hai đợt chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Là người nặng tình nên Trần Ngọc Phượng không lúc nào nguôi quên, mà lúc nào cũng nghĩ về người thân, gia đình mình ở nơi quê nhà Nam Định. Tháng 9/1965, anh rời Nam Định vào Nam, lúc đó không kịp từ biệt gia đình. Đọc những dòng nhật ký anh viết, làm người đọc không khỏi nghẹn ngào. “Khi đoàn tàu dừng ở ga Nam Định chờ tránh tàu lúc gần 10 giờ tối, thành phố vùa bị Mỹ ném bom, chìm trong bóng đêm. Tiếng còi báo động, tiếng xe cứu thương, tiếng người kêu khóc thảm thiết. Thành phố mất điện, trên trời thỉnh thoảng lóe lên vệt sáng của đạn pháo phòng không, của những ngọn đèn pha. Trên sân ga các đội tự vệ hối hả dọn đống gạch đổ nát, tìm kiếm những người bị thương. Cách đây 2 tháng trong trận ném bom đầu tiên vào Nam Định, địch đã phá hủy kho dầu và giết chết nhiều người dân ở ngay phố hàng Nâu của mình. Từ đây về nhà mình không xa mà không đi được. Khi tàu chuyển bánh, mình ngoái nhìn thành phố nơi gia đình mình sinh sống mà lòng nặng trĩu như đang tuột dần vòng tay gia đình. Nơi ngôi nhà nhỏ cuối phố có bà, ba, chị và hai em mình đang vật lộn với cuộc sống khổ cực trong chiến tranh. Gia đình mình nghèo. Sau khi mẹ mất, ba mình đưa 4 người con từ Sài Gòn ra Nam Định...

Năm 1962 đang học lớp 10 mình đi bộ đội. Tháng 9/1965 tưởng rằng hết nghĩa vụ mình sẽ là quân nhân chuyên nghiệp kiếm tiền phụ giúp gia đình, thì nhận được lệnh vào Nam gấp. Mình ân hận chưa làm gì để phụng dưỡng cha, để thay chị gánh vác gia đình. Mình cảm thấy có lỗi, dù lỗi ấy không phải tại mình. Nỗi niềm ấy cứ day dứt mãi. Cả nước chiến tranh. Mình ra đi nhẹ cánh chim bay, để lại sau lưng cả gia đình với bao khó khăn chồng chất...”.

Chính lá thư nhà của cha làm cho Trần Ngọc Phượng thêm niềm tin yêu và hy vọng. Đó là động lực để anh chiến đấu và sẽ cố gắng sống xứng đáng với niềm tin yêu của gia đình và quê hương.

10 năm trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường, tham gia nhiều trận chiến, đi đến nhiều nơi, gặp rất nhiều người, qua nhiều vùng đất, chứng kiến không biết bao cảnh tượng bi hùng... Có lẽ ám ảnh nhất đối với Trần Ngọc Phượng là sự hy sinh của những người đồng chí, đồng đội. Có người đang cùng hành quân bên anh thì bị trúng pháo và gục ngã (Dũng cơ yếu)... Bao nhiêu sự hy sinh dồn dập, có những trận đánh ta tiêu hao lực lượng quá nhiều!

Trần Ngọc Phượng nhớ tất cả từ khi mình bước chân vào Nam cho đến lúc đất nước hoàn toàn độc lập: anh đi những đâu, làm những gì, gặp những ai... và cả những băn khoăn, trăn trở, day dứt, xót thương về những điều đã xảy ra, những thứ đang hiện hữu ở hiện tại. Tất cả được anh kể lại rất cụ thể, chi tiết trong các bài: Tết rừng, Ký ức Mậu Thân, Ngã ba Cây Cầy, Đồng Đội, Thư nhà, Tình rừng, Bà Rịa thân thương, Cảm xúc tháng Tư, Đám cưới lính, Dọc đường miền Trung, Giỗ bạn, Lời thề ấy đi cả đời chưa trọn...

Với Trần Ngọc Phượng, cuộc sống ở rừng vô cùng phong phú: vui, buồn lẫn lộn. Nhưng cái bi thương luôn hiện diện trên mọi bước đường. Trong Tình rừng, có đoạn kể về một câu chuyện đau lòng của chị Chín Nụ. Đọc mà tim tôi nhói đau, nhưng trong hoàn cảnh bức thiết ấy không thể có giải pháp khác hơn. “Năm 1969 lính Mỹ, Úc mở cuộc càn quét lên núi Mây Tào, quyết tiêu diệt bệnh viện K76A và bắt sống thương bệnh binh đang điều trị ở đây. Chúng phục kích bao vây chung quanh chân núi. Đơn vị quyết định mở đường rừng, khiêng cáng dìu hàng trăm thương binh luồn rừng vượt qua vòng vây của địch. Đoàn đi trong đêm khẩn trương và giữ im lặng tuyệt đối. Trong đoàn có chị Chín Nụ bế theo đứa con mới sinh được mấy tháng. Khi gần đến trảng nơi địch đóng quân bỗng đứa bé khóc ré lên. Mọi người nhìn nhau lo lắng. Nếu địch phát hiện thì nguy. Chị Chín Nụ vội bịt mũi đứa bé. Khi vượt qua được vòng vây thì đứa bé đã tắt thở. Chị Chín ôm đứa con khóc ngất. Mọi người nhìn nhau đau đớn...”.

Cái nhìn nhân văn, tử tế, đầy nghĩa khí của người lính được thể hiện rõ nét trong bài Cảm xúc Tháng Tư. Sau chiến tranh, đất nước hòa bình, bao người lính chiến thắng trở về mang trong mình vết thương chiến tranh, di họa chất độc màu da cam vẫn đeo bám và cả những đói nghèo, khó khăn, bệnh tật. Tuy vậy, họ vẫn sống với một niềm tin yêu bất diệt.

Điều đặc biệt, ở tập Tìm dấu chân xưa bên cạnh 16 bài viết bằng văn xuôi thì ở phần phụ lục có 14 bài thơ được Trần Ngọc Phượng viết bằng cảm xúc của một người lính thực thụ, có những bài chép vội trên đường hành quân, lúc nghỉ trưa, hay ban đêm nơi rừng sâu, núi thẳm, ánh sáng hiếm hoi... Những bài thơ chép trên giấy pơ luya mà anh còn giữ lại cho đến hôm nay như là kỷ vật quý của đời lính. Tôi có may mắn được anh trực tiếp cho xem những bài thơ chép tay qua thời gian đã ố màu. Có những bài ghi chép cẩn thận, có những bài thơ chép vội và sửa đi sửa lại nhiều lần. Những dòng chữ ấy là tâm trạng, là cảm xúc và cả những suy tư của một con người luôn sống vị tha, đa cảm. Bài thơ Khóc bạn, Trần Ngọc Phượng viết tặng Dũng, người bạn thân thiết đã hy sinh cạnh anh trong trận chống càn tháng 6/1968 tại Bảo Bình, Long Khánh. Đó là tiếng khóc nghẹn, đau đớn đến sững sờ, thảng thốt! Mới đấy mà bạn đã vĩnh viễn rời xa!...

Dũng chết rồi, Dũng không còn nữa/ Tim không đập và ngực không còn thở/ Dũng chết rồi có phải thật không?/ Gương mặt đây máu vẫn tươi hồng/ Mắt nhắm lại hiền lành như giấc ngủ/ Ta bàng hoàng không sao tin được/ Dũng bỏ mình đi không nói đến một lời/ Hỡi bạn quê hương thương mến ơi/ Ta sống với nhau mấy mùa mưa nắng/ Bom đạn quanh mình sống chết vào ra/ mà nay đành phải cách xa/ Quân thù đã giết bạn ta mất rồi/ Máu xương đồng chí ta ơi!/ Xót xa căm giận sục sôi trong lòng/ Không bao giờ và chẳng bao giờ nữa/ Dù chỉ là trong một phút giây/ Nghe xôn xao quen thuộc đâu đây/ Một điệu dân ca Dũng thường hay hát/ Từ bữa nay cơm ăn, đói, no, mặn, nhạt/ Đường hành quân bão táp mưa sa/ Mỗi dòng sông ta qua/ Mỗi con đường ta bước/ Sao xót xa lòng ta muốn khóc/ Dũng thân yêu, Dũng chẳng còn đâu/ Chỉ còn đây nấm mộ đắp cao/ Chỉ còn đây mảnh đất này Long Khánh/ Mà năm tháng là tình sâu nghĩa nặng/ In dấu chân ta sương gió mấy mùa/ Thắm máu anh em mình vì độc lập tự do/ Ta lao tới quân thù/ Đuổi không còn tên xâm lược/ Đất nâng chân ta đất nóng bỏng căm hờn/ Đau thương không làm ta rơi nước mắt/ Món nợ này không thể nào quên.

Xuyên suốt trong Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng là bối cảnh của cả một thời kỳ lịch sử biến động và không thể nào quên. Vẻ đẹp tính cách, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc được thể hiện rõ nét qua từng con người, từng số phận và của cả một dân tộc. Ở đó, là hình ảnh những chiến sĩ chiến đấu hết mình vì nền độc lập tự do cho Tổ quốc, những bà mẹ, những ông bố, những người dân luôn che chở, đùm bọc, giúp đỡ... góp phần làm nên cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Giờ đây, khi đất nước đã hòa bình, có độ lùi về thời gian, người chiến sĩ Trần Ngọc Phượng thuở nào vẫn nhớ như in từng thời khắc, từng dấu mốc, từng kỷ niệm vui buồn của đời lính...

Đại thắng mùa xuân 1975, đã mở ra một trang sử mới, Bắc - Nam sum họp một nhà, giang sơn thu về một mối, niềm vui như vỡ òa... Nhưng những vết thương chiến tranh vẫn còn đó, công lao, máu xương của các anh hùng, sự đùm bọc, cưu mang, chở che của nhân dân, sự hy sinh vô bờ của những người thân yêu ruột thịt... vẫn luôn nhắc nhớ mỗi người trong chúng ta phải luôn biết ơn, phải luôn phấn đấu để sống có ý nghĩa ở cuộc đời này.

Trong phần cuối của Thư nhà, Trần Ngọc Phượng giãi bày trong đẫm đầy nước mắt: “Chiến tranh rồi cũng qua. Hai năm sau, từ thành phố Sài Gòn sau giải phóng còn gần như nguyên vẹn, mình lên tàu Thống Nhất về thăm gia đình. Mọi người trong gia đình ôm chầm lấy nhau mà khóc. Thành phố xơ xác tan hoang sau chiến tranh, vẫn chưa kịp thu dọn. Nhà ga đổ nát. Tòa Thị chính nơi có 3 con rồng phun nước bị phá hủy hoàn toàn. Tòa nhà Câu lạc bộ có kiến trúc rất đẹp bên đường, chỉ còn đống gạch vụn. Nhưng may sao vẫn còn nguyên vẹn cột cờ biểu tượng của thành phố. Lá cờ hiên ngang tung bay trước gió trong tiếng còi tầm quen thuộc giữ nhịp sống của thành phố Dệt. Cuộc sống mới không kém phần cam go lại bắt đầu.

Nửa thế kỷ đã trôi qua. Bà, ba, chú em út, nhiều người thân trong gia đình và bạn bè mình đã thành thiên cổ. Mỗi lần về quê mình thích đạp xe đi quanh các phố: “Thành phố như bàn tay/ Ta ấp vào lồng ngực/ Đường phố như chỉ tay/ Dọc ngang trong ký ức”. Mình đi dọc sông Đào, con sông đã chảy qua một thời tuổi thơ gian khó ấm áp tình thương của mình. Con sông nay vẫn mải miết như xưa những cảnh vật đã có nhiều thay đổi: “Con sông bây giờ, cũng đã khác xưa/ Không còn Bến Nứa, không còn con đò/ Mộ Bà, mộ Cha bên sông lộng gió/ Chỉ còn nỗi nhớ, mênh mang đôi bờ””.

Người cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng khẳng định bằng những lời tâm huyết. “50 năm đã trôi qua. Những người lính Mậu Thân còn sống sót đang sống những ngày cuối đời hiểu hơn ai hết: Có Mậu Thân, Mỹ mới xuống thang đàm phán. Có 81 ngày đêm Thành Cổ Quảng Trị, có 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không đánh bại cuộc tập kích máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội mới có Hiệp định Paris. Có 30 năm kháng chiến trường kỳ với bao hy sinh không thể kể xiết của toàn dân tộc mới có Đại thắng mùa Xuân thống nhất đất nước năm 1975. Không ai quên và được phép lãng quên lịch sử”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm