TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài

Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-05-25 16:11:01
mail facebook google pos stwis
316 lượt xem

TS. Nguyễn Thùy Trang

Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.

Nếu để tìm một tiểu thuyết đọc để giải trí, thưởng ngoạn, Hư thực của Phùng Văn Khai sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu này. Vì tác phẩm không dễ thẩm, nặng về suy tư, đòi hỏi sự tập trung cao độ và khả năng phán đoán linh hoạt mới có thể nắm bắt được mạch ngầm ẩn ý sau từng lớp chữ. Bước vào trang văn, độc giả như lạc giữa ma trận dòng chảy ý thức, nhưng nếu bền bỉ kết nối, chúng ta sẽ khám phá được nhiều tầng nghĩa phong phú mà tiểu thuyết mang lại. “Hư thực” chính là sự phản tư nghệ thuật và truy cầu chân lí của nhà văn Phùng Văn Khai.

Qua tiểu thuyết, Phùng Văn Khai cho thấy thế giới được lập nên từ những giả tưởng và mộng mị. Khó có điều gì khẳng định tính chính xác và có thực trong tác phẩm. Nhà văn luôn đặt các tình huống trên hai mặt, khi ngỡ là thực, khi tựa nằm mơ. Tiểu thuyết mở đầu bằng hành trình đến với rừng núi hoang vu của hai nhân vật họ Đào và Y. Mục đích của chuyến đi thoạt tiên được đề ra rất cụ thể: thu thập thông tin cho số báo mới, tìm kiếm tư liệu sáng tác. Tuy nhiên, các sự kiện, hành động, việc làm diễn ra đều luôn đan cài với những giấc mơ, những điều kì bí, lẫn lộn thực và ảo. Chối từ khoác cho tiểu thuyết một khung sườn chắc chắn, kết cấu rõ ràng, Hư thực không có cốt truyện, các chương không được gọi tên, tự liên đới giao thoa bằng sự hư ảo như những đám mây lửng lơ vô tình tạo hình thái trên bầu trời.

Phùng Văn Khai bày tỏ một quan niệm nhân sinh về sự vô thường của đời người. Hai nhân vật trung tâm họ Đào và Y được xem như sợi dây kết nối các tình huống truyện. Thực ra cả hai đều khá nhòe mờ giữa hỗn độn sự kiện. Bởi nhà văn đã tiến hành “tẩy trắng” nhân vật, tước bỏ danh tính, biến họ thành những con người khá chung chung qua vài nét phác thảo: “họ Đào, thân cô thế cô, bấp bênh nghề ngỗng, lang bạt kỳ hồ, gia đình xa vắng, vợ con không màng, tiền tài im lặng, trú ngụ thất thường, độc thân hơn bốn mươi năm lại tội nợ cầm bút viết văn, lại viết không xu thời nịnh thế thì kiếp người có khác gì kiếp bướm, như có như không, có cũng như không ở cuộc đời này”. Còn Y, đồng nghiệp với họ Đào, dù có gia đình, cơ quan đoàn thể, nhưng xem như thiếu mật thiết, luôn mang cảm giác cô đơn, hoang vắng của kiếp người. “Y và họ Đào thường ẩn vào cuộc sống nội tâm, tránh va chạm, tiếp xúc và lặng lẽ sáng tác. Cuộc đời này không dành cho Y và gã? Y và gã đã làm gì sai, đã làm gì động chạm đến quyền lợi của ai đó? Y mơ hồ hiểu ra mình không mấy ăn nhập ở cuộc sống này từ lâu”. Điểm nhấn để khơi lẩy chiều sâu nội tâm nhân vật chính là việc nhà văn tạo hai bối cảnh đắc địa: đẩy họ vào chốn bức bối, bất định trên con tàu và chốn linh thiêng, kì bí rừng núi để diễn giải những cảm xúc đa mang. Cả hai bước lên con tàu được hình dung như chở đến địa điểm họ tác nghiệp. “Cuộc đi này ngoài việc hoàn thành bài ký vùng biên viễn cho số báo Tết, Y còn thu thập tài liệu cho cuốn tiểu thuyết đang viết”. Song, đó còn là con tàu của ý niệm, cũng là con tàu cuộc đời mỗi người. Con tàu đơn độc lao mình trong đêm đen về nơi vô định, chở theo hai kẻ cũng đang cảm thấy cuộc đời thăm thẳm, hoang liêu. Tại núi rừng, điều chờ đợi họ không chỉ là chất liệu sinh động của cuộc sống thâm sơn cùng cốc, mà nó chứa đựng bản nguyên hoang sơ của con người và tự nhiên.

T.S Nguyễn Thùy Trang

Móc nối từng câu chuyện là sự hiện diện của những nhân vật hết sức đặc biệt: cô gái trong rừng, người đàn bà điên, người đàn ông dưới gầm cầu và con chó, hai ông bà già ở căn nhà lụp xụp, đạo quân đen quân vàng giữa lòng sông, những người đàn bà làm nghề ăn sương ở dãy trọ ngoại ô, những đứa trẻ làng Bái,... Dường như, giữa các nhân vật này không có mối quan hệ với nhau. Họ được tái hiện, hình dung qua trí nhớ, hoài niệm, tâm tư của Y và họ Đào. Điểm chung giữa họ là sự bất bình thường của đời sống, cái thiếu khuyết trong tâm hồn và mong manh của nhân sinh. Hơn hết, họ đều khát khao một điều gì không rõ, đơn thuần như muốn được khỏa lấp nỗi lòng, mong được thấu hiểu nỗi đau và cô đơn, nỗ lực thoát khỏi tâm thế chông chênh giữa đời. Từ đó, các nhân vật trở thành những hình tượng tiêu biểu cho từng khía cạnh đa dạng trong hoạt cảnh cõi thế. Họ Đào và Y đại diện cho những con người luôn tìm kiếm danh tính và biến chuyển trong nhận thức. Người đàn bà rừng đem lại sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, còn người đàn bà điên là hiện thân của những mất mát và bi kịch cá nhân. Phùng Văn Khai không xây dựng nhân vật theo cách thông thường. Thay vào đó, mọi hình tượng trong Hư thực đều tồn tại ở trạng thái phiếm định, biến hóa liên tục, không có ranh giới rõ ràng giữa người/ ma, người/ thú. “Con người mãi mãi là một bí mật không thể giải mã”. Chính cách tiếp cận này đã tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt, khiến người đọc cảm nhận tác phẩm như một dòng chảy của những mảnh ghép kí ức, chuỗi ảo ảnh tưởng chừng rời rạc, bí hiểm nhưng lại liên kết với nhau bằng những sợi dây vô hình của nội tâm, nhằm giải mã bản đồ tiềm thức.

Đặt các nhân vật vào bối cảnh xa cách văn minh - văn hóa, Phùng Văn Khai còn bày tỏ quan niệm nhân sinh trong một thế giới đa loài. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn và nhiều bất ngờ, con người mất đi vị thế chủ động, chinh phục, tấn công. “Giữa chốn rừng khuya, Y có cảm giác xung quanh, trong bóng tối âm u đang lạo xạo một cách bí ẩn, bất trắc”. “Những cánh rừng nham nhở, loang lổ, mịt mùng, tối thẫm chìm trong tịch mịch”. Tiểu thuyết mô tả một không gian đa chiều, nơi con người và các sinh vật khác cùng chung sống, cùng tồn tại trong những tình huống bí hiểm, đầy trắc ẩn, dễ nhầm lẫn đâu là hư là thực. Con người không có quyền định đoạn hay tỏ thái độ “trung tâm”, vì mọi thứ đều dựa trên luật nhân quả. “Y hốt hoảng bảo thôi đi, hãy tha cho nó làm chúa tể ở đây, ông hiếu sát như vậy không tốt gì trong chuyến xuyên rừng xuyên suối này đâu, tháng trước có mấy người đi rừng bị voi giẫm chết bi thương lắm”. “Y thoắt rùng mình khi nhận thấy ở sâu trong những hốc mắt đẫm nước, cả người và chó hằn lên những tia xanh lét, rờn rợn mà nghe đồn chỉ có ở loài hồng cẩu quẩy. Y rùng mình nghĩ đến một kết cục không hay ho xảy đến với mình”. Bối cảnh thoát li hiện thực, nhưng sự kiện lại cắm rễ vào đời sống. Con người không ai ngó ngàng, thiếu kết nối, nhưng lại bận tâm giữa chiều sâu nhân sinh. Cứ thế, Hư thực cuốn người đọc đi trong sương mờ giăng mắc của những nội tâm phức tạp, đa đoan; của những giấc mơ đan xen ẩn hiện, liêu trai và buồn bã, chất vấn và suy tư, dục vọng và lí tính.

Nhà văn Phùng Văn Khai (phải) trao đổi cùng đồng nghiệp

Trong thế giới đó, giới hạn giữa các loài trở nên mong manh, buộc nhân vật phải tái định nghĩa về chính bản thân mình. “Con người vẫn tồn tại một cách cẩu thả, tăm tối, đầy oán trách và đồi bại. Con người đang tụt xuống những con dốc miên man không dứt. Con người vĩnh viễn không tìm thấy mình từ hàng ngàn hàng vạn năm. Trước cái lồng quản thúc hết sức kiên cố, không ai đập vỡ được, càng không ai thoát ra khỏi móng vuốt của nó. Cứ theo những ý nghĩ của cái đầu rùm ròa kia thì con người khi mặt trời lặn cũng là lúc trốn vào những nỗi đau của mình, loay hoay trong cái lồng chật hẹp. Con người luôn cố thoát ra rồi lại không mong muốn thoát ra đầy khó hiểu”. Quan niệm về con người trên cơ sở đó không chỉ xoay quanh bản ngã cá nhân, mà còn mở rộng tới mối quan hệ giữa con người và sinh thái, giữa các thực thể khác nhau trong một vũ trụ tương thông, tương hỗ.

Một trong những chìa khóa quan trọng trong tư tưởng nhân sinh của tác phẩm là bản chất linh hồn và những giới hạn khó đo đếm của nó. Các nhân vật trong Hư thực thường đối diện với những biến đổi kì lạ của vô thức, nhưng chính trong những biến đổi đó, họ nhận ra được bản chất con người và giá trị của tự do. “Y nhìn gã, trăng leo lét tưới tắm thân thể, tóc râu, áo quần, thân phận mấy con người rừng rú. Trăng lênh loang, tràn khắp lều bạt, gỗ lạt, củi cành, phên giậu, cỏ cây, đá sỏi một vẻ mông muội, hoang sơ. Đời người hữu hạn sao ham muốn khôn cùng, trách nào không rước về tai họa”. “Những cơn mộng mị hư thực, những ước muốn hão huyền, nối nhau bước đi như hai gã tâm thần nơi rừng hoang”. Hành trình của nhân vật là hành trình tìm kiếm sự thừa nhận và giao thoa cảm xúc giữa các thực tại khác nhau, đồng thời khẳng định rằng, bản thân con người không chỉ bị giới hạn bởi các quy chuẩn xã hội cứng nhắc, mà còn chịu sự hạn hữu của thể lí sinh học trong định luật tự nhiên.

Trên phông nền phiêu linh đó, Phùng Văn Khai còn bày tỏ cặn kẽ quan niệm về nhà văn và sáng tạo nghệ thuật. Dĩ nhiên, tác giả không áp đặt hay định hướng một lối viết cụ thể, mà qua hành trình đi tìm chân lí đời sống và nghệ thuật của Y và họ Đào, Phùng Văn Khai đặt ra trách nhiệm của người cầm bút: “Thằng nhà văn không khám phá sự thật thì còn ra gì”. Tuy thế, trong thế giới mà “bản chất cuộc đời là hư thực”, Phùng Văn Khai cho thấy một nghịch lí mang tính hiện sinh: làm thế nào để truy tìm sự thật, khi sự thật ấy luôn được phủ lớp màn che của giả dối, ngụy trá? Từ đó, tiểu thuyết dấy lên vấn đề cốt lõi: liệu nhà văn có thể giữ vững niềm tin vào chân lí, và liệu họ có dám đánh đổi sự an toàn cá nhân để truy cầu điều ấy? Như lời nhân vật trong truyện từng nói: “Sáng tác không hèn thế được” - một tuyên ngôn không chỉ khẳng định bản lĩnh của nghệ sĩ, mà còn cảnh báo sự sa đọa của văn chương khi đánh mất tinh thần phản kháng và sự tỉnh thức nội tâm.

Tiểu thuyết đã tô đậm ý niệm sâu sắc về sáng tạo nghệ thuật: sáng tác không chỉ là kĩ thuật hay phương tiện truyền đạt, mà là một hình thức sống, một trạng thái hiện sinh. Với họ Đào, “đã sáng tác là quên hết xung quanh”, là khi “những con chữ sống ngay lập tức cuộc đời của chúng”, gợi mở một hình dung về văn chương như một thực thể sống động, có thể khổ đau, hoan lạc, và cả phản kháng. Ở đây, nhà văn không còn đơn thuần là người kể chuyện, mà trở thành kẻ đồng hành với nhân vật, chịu đựng cùng nỗi đau, đối diện cùng sự bấp bênh của cuộc đời. Những trang viết của họ Đào - dù ảm đạm, đầy bất lực - vẫn cho thấy một nỗ lực không ngừng để gắng gỏi chạm tới bản chất luân hồi, nhân quả và vô thường trong kiếp người. Văn chương là lĩnh vực đòi hỏi sự dấn thân và khát vọng khám phá không ngừng về con người và cuộc sống. Mỗi nhà văn đều có một con đường sáng tác riêng, phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của chính họ. “Họ Đào bảo, sáng tác ít ra phải như thế, lẽ ra ông đã có một cái gì khá. Hãy thoát khỏi đám đông đi. Y lặng lẽ không nói năng. Dễ gì thoát khỏi đám đông. Sáng tác ấy không in được, xếp xó, Y cũng đã quên từ lâu”. Qua Hư thực, Phùng Văn Khai đã phần nào khắc họa những lối tư duy khác nhau về sáng tạo văn chương. Nhờ thế, chúng ta thấm nghiệm một bài học sâu sắc: sáng tạo văn chương là hành trình đơn độc nhưng không thể xuôi theo sự dễ dãi. Người nghệ sĩ chân chính là người dám sống, dám viết, dám giữ vững lập trường và không ngừng truy cầu sự thật. Văn chương, suy cho cùng, là nơi hiện thực được soi chiếu bằng một cái nhìn riêng, đầy bản lĩnh và nhân văn.

Bên cạnh đó, tiểu thuyết Hư thực đặt người viết vào một thế giằng co giữa khát vọng nói lên sự thật và nhu cầu sinh tồn trong một thế giới đầy bất trắc. Nhân vật Y được “trời” phú “con mắt thứ ba”, có khả năng nhìn thấu mọi việc. Chi tiết này đã phản ánh rõ thiên bẩm cần phải có của người nghệ sĩ: nhận diện, thấu suốt bản chất đời sống dù bất kể đứng giữa lằn ranh của lí tưởng hay thực dụng, giữa cô đơn hay hòa nhập. Điều cốt lõi nằm ở nội lực dấn thân, xông pha của nhà văn. Có ý niệm tốt đẹp, có tư tưởng tiến bộ, nhưng lại không thể chuyển hóa vào trang viết, đó là thất bại của người nghệ sĩ. “Có những con chữ không chịu ở lâu trong đầu. Chúng phải sống ngay lập tức cuộc đời của chúng, có khi chỉ một hai người nhìn thấy chúng sống, nhảy múa, hát ca hay là khóc, chúng cũng bằng lòng với đời sống ấy của mình”. Đôi khi, nhà văn cũng phải đấu tranh với hai dòng suy nghĩ: viết trốn tránh hiện thực, thỏa hiệp với mọi xấu xa để có thể sống an toàn, hay cứ mạnh bạo mà viết để hứng lấy cuộc đời sóng gió, xa lánh, thiệt thân. “Viết có khi phải lấy yên thân an toàn. Sống không nổi viết gì. Phải sống sót đã. Còn viết hãy cầm chừng thôi, lựa nhau mà viết, cũng như lựa nhau mà sống”. Nhận định này không chỉ mang tính tự sự, mà còn cho thấy một nhận thức cặn kẽ về cái giá phải trả khi dấn thân vào con đường văn chương chân chính. Viết không chỉ để được “sống sót”, mà còn để “sống đúng” với sứ mệnh của văn chương - phản ánh hiện thực, lay động lòng người, mở ra những chiều sâu tư tưởng. Từ đây, người đọc có thể thấy rõ một quan niệm xuyên suốt trong Hư thực: viết không nhất thiết phải chiều chuộng thị hiếu, mà chính là chống lại sự mài mòn của thời gian và cái vô nghĩa của tồn tại.

Trên phương diện hình thức, Hư thực là sự hòa quyện giữa hiện thực và huyền ảo, tạo nên một cấu trúc nghệ thuật mở, giàu liên tưởng. Phùng Văn Khai đã chủ động nới lỏng một cách cởi mở về tư duy văn chương; không trình bày sự kiện theo tuyến tính truyền thống mà sử dụng thủ pháp phân mảnh, đan xen giữa các lớp truyện, giữa giấc mơ và hiện thực, giữa tiếng nói của nhân vật và tiếng nói của chính tác giả. Qua đó, Phùng Văn Khai đã tạo nên một không gian đối thoại đa chiều. Lúc này nhà văn không còn là kẻ độc quyền chân lí, mà là người gợi mở, người thắp sáng những mảng khuất tối của hiện thực và ý thức. Cách viết này không chỉ làm tăng chiều sâu ngữ nghĩa cho tác phẩm, mà còn phản ánh thế giới quan bất định của con người hiện đại - nơi mọi nỗ lực lí giải đều mang tính bất toàn.

Trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam, tiểu thuyết Hư thực của Phùng Văn Khai là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho lối viết kì ảo, siêu hư cấu. Tráng men hiện thực bằng những giấc mơ và làn sương huyễn hoặc, Hư thực của Phùng Văn Khai mang một phong cách đậm chất thơ, kết hợp giữa những đoạn văn đầy ám ảnh và những câu chuyện có tính truyện lồng truyện đầy tượng trưng, dẫn gợi. Nhìn chung, Hư thực đánh dấu sự sáng tạo và dũng cảm của Phùng Văn Khai trong việc mở rộng biên độ của tiểu thuyết. Tác phẩm khẳng định một điều: văn học không chỉ là sự tái hiện thực tại mà còn là cuộc đối thoại không ngừng với thế giới nội tâm và những tầng sâu vô thức của con người. Vì thế, Hư thực không chỉ là một tác phẩm hư cấu mang tính biểu tượng, mà còn là một văn bản triết học về nghề viết và sự hiện hữu. Với tác phẩm này, Phùng Văn Khai đã minh chứng rằng, tiểu thuyết đương đại Việt Nam hoàn toàn có thể vươn tới chiều sâu tư tưởng và hình thức nghệ thuật phức hợp, ngang hàng với các xu hướng quốc tế. Điều quan trọng là ở tinh thần không ngừng tự vấn và dấn thân -  điều mà Hư thực đã thể hiện một cách thuyết phục và đầy lay động.

NTT

 


[1] Diêm Liên Khoa. (2014). Kiên ngạnh như thủy. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Tr.13.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm