TIN TỨC

Nắng xanh pha hương giọt mật đầy

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-08 17:48:56
mail facebook google pos stwis
427 lượt xem

Giữa nhịp sống vội, THỜI NẮNG XANH mở một khung trời dịu sáng: gió qua mặt cỏ, khói nhang nghiêng vai, thẳm sâu là nếp nhà. Đó là giọng nói về nguồn cội — ít phô trương, nhiều bền bỉ — khiến ta muốn bước chậm lại để lắng nghe. Về tập thơ này đã có nhiều bài viết; lần này, Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
 

TUẤN TRẦN
(Cảm nhận về tập thơ THỜI NẮNG XANHTrương Nam Hương)

Giữa nhịp sống đuổi xô, người trẻ như tôi phải chóng trôi để theo kịp với tốc độ điên cuồng vô nghĩa. Lắm lúc, ở một khoảnh khắc nào đó trên đường đua, ghé nhìn ven đường - bất chợt,“Cỏ mềm xanh thót trái tim”/…/ Chim kêu thót ngực hoa vườn/ “Em xa hòn sỏi cuối đường thót đau”. Thảng thốt tôi nhận ra mình đã quên đi mục đích sống trên đời. Ngày nào có những hình dung như thế thoáng qua tâm trí là đêm về tôi lại “nhảy lên xe” để tìm… Tìm “Về hỏi thăm mùa cũ”, và thấy, “Gốc dâu người đốn bỏ/ Rễ nắng xòa lên tôi”. Tôi lẫn trốn thực tại mông lung ngột ngạt, ngụ vào chốn nương náu bình yên trong “THỜI NẮNG XANH”.

Bối cảnh nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương có khả năng lớn lao làm thời gian tiết độ, để cho ta kịp nán lại mà nói lời cảm tạ cuộc đời. Ta sống cẩn trọng và chân thành hơn. Ta biết“…Lặng đến cuối cơn mưa bất chợt”, để thấy “Lộng lẫy sau lưng bảy sắc cầu vồng”. Hẳn là lúc đó ta được đứng ở vị trí bên lề, cho cùng trải phơi bao mạch nguồn cảm hứng yêu thương thao thiết:“Biển nhắc thu về giọt máu xanh” - Tiếng thơ kiến tạo trên nền tảng đó.

“Sớm nay trời đất ngây ngoai quá/ Mùa nhắc heo may ghé cửa phòng/ Nắng cũng thơm mềm mây cũng ngọt/ Nhớ gì cây phố khép cong cong!”. Và có những buổi sáng như thế, một người trẻ cho phép mình “vượt ngưỡng” bằng cách tìm về, mặc “tay trắng hồn trong”. Tâm hồn ta cần được nghỉ ngơi, để khơi nguồn... Kể cả việc ngồi như ngồi chờ cơn bão cơm áo gạo tiền đổ tới, thì ta vẫn cứ chấp niệm vô cùng.

Chẳng có cơn bão nào mạnh hơn cơn bão lòng, cơn bão trống vắng giữa ngàn ngạt người. Để khỏa lấp vá víu những hư nát bấy trần nơi trái tim, khi phong phanh khuôn ngực đi qua phong ba của đời sống đương đại. Có lẽ, ta chỉ còn cách kiếm nhìn về quá khứ, những điều thiêng liêng thầm lặng “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian”. Chỉ khi ta biết ơn, mới sâu cảm về thế giới trần trụi này. Thực tế thế giới trần trụi là “đồng lõa” của điều chân thành đẹp đẽ. Và khi ta đấu tranh với thực tại xấu ác trần trụi kia, lúc chiến thắng mới thấy được sự đáng giá hơn ngàn lần của cái thiện đẹp chân thành: “Khi con nói về giang sơn gấm vóc/ Nhớ đừng quên có hạt lúa tảo tần/ Khi con nói về lớn lao tổ quốc/ Nhớ có phần vĩ đại của nhân dân”.

Ngoài kia mọi sinh vật chữ nghĩa mặc màu áo cách tân, giẫm đạp nhau can dự vào hiện thực nhân sinh. Với nhiều tiếng nói “đại nghĩa”: Khi đả phá, khi kêu đòi, khi giễu nhại, khi nghịch thường, lúc ngạo nghễ… Nhưng dễ mà đến khi “bạo phát bạo tàn” nếu thơ chẳng biết mình biết ta, biết vai trò, vị trí, biết điểm dừng và giới hạn của chính mình. “Thần Đồng” đó mà cũng chỉ khiêm hạ đứng “Góc sân” nhìn “khoảng trời” nữa là,…

Với Trương Nam Hương, nhỏ nhoi lắm – “Linh cảm câu thơ rét muốt về”, “Dáng gầy như lau sậy”, “Phận nghèo lắm lúc liêu trai/ Tình mơ lỏng hết khuya cài hèn sang”. Anh luôn cất lên những tâm tình bé mọn, giòn khô phận người như thế. Để kết bện bền bỉ sợi tình tơ nghĩa nối lại đôi bờ hư thực mà “ngỡ” mà lật trở mà yêu thương ngào ngọt. Để, “Sau đêm” “Sáng dậy hương mùa xanh đẫm tay/ Em dâng tươi mưởi giấc em đầy/ Đêm mơ gió chúm trên môi lá/ Em… vít tình anh tưởng bóng cây”. Để thương, “Thương bông cúc nhỏ chiều mưa ấy/ Run rẩy chờ anh giữa gió lùa”.

Tôi vẫn nhận ra đôi điều “bất an” hay “chát chúa” về đời sống trong âm hưởng tiếng thơ. Nhưng những nặng lòng cho tang tóc thời thế đó được bọc gói trong hình hài thẩm mỹ đẹp trong nhẹ nhàng, với những cử động giai âm hết sức tế vi mà đủ sức ngân vang. Anh thấy được phía trước là hư vô,“Người mới đây người… không thấy nữa/ Nhang vẽ chân dung, khói điểm thần”. Nên ý thức tìm về lối cũ đường xưa, để hôn rửa cho nhu thuần tấm thân trần vô lực.

Trương Nam Hương vẫn mãi miết nuôi “mộng ban đầu khó phai”. Anh vẫn khóc cười cùng “sương trắng, nắng xanh”. Mặc gió Á, mưa Âu ngập đường phì độn. Mặc hình hài thẩm mỹ thế gian thai mang những nồng nặc khí thở thời đại - một thời đại ăn xổi ở thì. Tiếng thơ anh vẫn cần mẫn điều tiết dòng chảy mềm mại nhỏ rỉ. Để giữ cho dòng văn hóa nguồn cội thiêng liêng đồng chảy, song cùng những bội thực suy tưởng hậu hiện đại. Và thơ Anh có mặt để chống lại sự vô cảm của người đời với thơ chăng!

Trương Nam Hương là nhà thơ hiện đại, thuộc thế hệ hậu chiến. Trên mảnh đất “cảm thức nguồn cội” - vốn dĩ là thi đề đã từng thành công rực rỡ, đóng thành mốc son sáng chói tôn vinh những thi hào tiền bối tuyệt tác như: Nguyễn Bính, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Thạch Quỳ, Bằng Việt, Viễn Phương… Thế nhưng, hồn thơ Trương Nam Hương đã vượt qua thử thách lớn và gieo hạt mầm ấn tượng nội tâm riêng khác - Không hề “yểu xanh” so với những tán của các thi dân thế hệ trước đã thâm canh. Với đồng bối, thì thơ Anh đã trở thành số một, vị trí không thể thay thế trong biểu đồ thi ca “Những mùa thu cũ”…

Yếu tố làm nên chất trữ tình vinh diệu trong thơ Trương Nam Hương, trước hết từ bản thể một tâm hồn “tinh tế bẩm sinh”. Trên phương diện nghệ thuật thì thi cách/ “mánh khóe” dụng ngôn bằng thanh trắc. Với sự khéo léo xếp đặt chấm phá những động từ “trúc trắc” vào trong tứ thơ đang rất ngọt đã tạo nên ấn tượng tri giác độc đáo. Đó là sáng tạo tuyệt vời để xác lập trên nền tảng cũ mòn một điều sáng lạ. Tất nhiên tứ - tình – hình ảnh – âm thanh phải rất tài hoa tuyệt thế: “Bừng thức tinh khôi/ Bông hoa khe khẽ hát/ Anh áp nhẹ vào thăm thẳm nhan sắc/ Anh bắt gặp vòm cây em trẻ lại/ Suối sông thấm đẫm mưa hè/ Mùi ngây ngái của ngô non bùn bãi/ Chú nhái nằm thoi thóp lá sen che”.

Lối tạo tác ngang nghạnh giữa mạch thơ đó, nếu ngòi bút không đủ khéo léo, sẽ làm cho cấu hình thẩm mỹ trở thành quái gỡ trong tạo lập văn bản tình thơ miền nhớ - vốn dĩ rất lặng lẽ, ngọt bùi, ân cần và tràn dư thao thiết. Trương Nam Hương đã xử lý chính xác tuyệt đối, cho âm thanh của trí tưởng sau cùng, gu vị còn đọng lại vẫn mượt mà không một gút sợi. Vừa cầu kì, vừa giản dị, vừa trong trẻo lại rất thanh tân. Có thể nói trong thơ Trương Nam Hương có bối cảnh nghệ thuật hương thôn mang điệu hồn Nguyễn Bính, nhưng giữa bầu không mướt như nhung lại được uốn cong chiều kích để “chuyển đổi cảm giác”, tạo thành khối hình tưởng tượng cho cảm xúc và kí ức đắp bồi thành sáp mềm lấp lánh:

- Nến tiễn buồn thương- lệ ngún thân

- Trăng chếch sân đình đỏ miếng cau

- Ta ngồi ngóng khoảng chiều im, thót buồn

- Em vít tình anh… tưởng bóng cây

- Sóng nhớ nghiêng duềnh cả mép ghe

- Nắng trong mắt những ngày thơ bé/ Cũng mơn xanh như thể lá trầu.

- Hoa sữa muộn mùa thơm thắc thỏm

- Lêu têu chân đất quạt mo thằng bờm

Các thanh trắc được lựa lọc và xếp đặt một cách sắc sảo đã kiến tạo sự cách tân trong thi pháp nhưng ảnh tượng nghệ thuật quá đỗi “ước lệ”- trong trẻo trắng ngần bầu không thôn ấp, cỏ, gió và nắng và bóng làng xa, vãn chợ chiều lại thể hiện cái bình yên sâu sắc trong thánh địa tâm hồn. Sự đan xen cũ mới tài tình đã làm cho thơ Anh trẻ trung, yêu đời - Dễ “đánh lừa tri giác”, để rồi thò sâu được vào trong lòng thế hệ hôm nay mà bắt đầu sửa sang/ chữa lành cho một căn bệnh mang tầm vóc thời đại: Vô cảm.

Không đứng “Góc sân” nhìn “khoảng trời” như Thần Đồng, Trương Nam Hương chọn “nhân sinh quan” “Góc cỏ” để nhìn những “nem nép” thân phận đang thể nghiệm hành vi thế thái nhân tình một cách trộm giấu xấu hổ. “Trong im lặng biếc xanh”, ta thấy xanh biếc màu sắc sự sống tồn tục nghiệt ngã của những sinh linh. Nhưng rồi sau tất cả, tất cả những “hành giả”, những “động tác” “cơ man là đê hèn trơ trụi” vẫn có một chồi non ủ đất, no sương, đợi chờ để một ngày tách vỡ, bỡ ngỡ gặp người…

"Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man gió và vầng trăng

Có nụ hôn lắm mùi mặc cả

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man nắng và tự do

Có dâng hiến không đòi giá thú

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man nhớ và cô đơn

Có câu thơ quặn đau sinh nở

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man quên và vô ơn

Có điếu thuốc vội vàng dụi lửa

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man bụi và chúng sinh

Có ánh mắt khóc cười khép mở

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man sương và lá đêm

Có thổn thức đợi mùa… để vỡ!"

Đọc thơ Anh từ thưở mười ba cho đến bây giờ tôi vẫn thế - “vẹn nguyên”: Một tình yêu được vẽ ra “lồm cồm” nơi nền đất, sàn nhà - Nguệch ngoạc những nét đầu tiên tôi tập làm thầy giáo chép lên cánh cửa hình ảnh quê cha, “người lạ kẻ quen”: “Ta nghe trong lời mẹ hát… / Chòng chành nhịp võng ca dao…”.

Ra đời vượt núi băng sông, lăn mình quay quắt qua những ngọn cao cuộc sống với nhiều thử thách chông gai. Cho đến khi trở lại với “THỜI NẮNG XANH”, vẫn vậy trong tôi: cúi nhìn về phía hương thôn - một bóng nước thẫm in nền trời chiều hôm nắng quái. Tôi náu trong tiếng thơ ấy như nép mình sau vạt áo lưng mẹ, một tấm khiên vòng tay vững chãi cha ôm. Có thể chăng một lớp vải liệm, một nắp áo quan ngày gánh nội ra đồng. Hay tôi đã luôn ở trong tiếng thơ Anh như cái bóng đứa trẻ ngây thơ hồn hậu náu sau bờ tre mái rạ để nghe:Run trên gốc rễ cũ càng/ Tôi trong dáng ngoại, bóng làng chở che”.

Bài in trên tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 10/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm