TIN TỨC

Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-16 13:40:26
mail facebook google pos stwis
1386 lượt xem

Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

So với những nhà văn hiện thực đương thời, Nam Cao khẳng định vị trí của mình trên văn đàn muộn hơn. Thế nhưng, không đi theo lối mòn của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…, Nam Cao tự vạch con đường riêng cho mình. Nhà văn không biết mệt mỏi kiếm tìm những hạt ngọc tiềm ẩn trong sa mạc bạt ngàn của cuộc sống. Cuộc sống vốn đa thanh, phức điệu. Người nghệ sĩ không thể là người vĩ đại đến độ ở cuộc đời có bao nhiêu mối tơ lòng thì trong tác phẩm của họ đòi hỏi phải dung tải hết bằng bấy nhiêu cung bậc. Để tự khẳng định mình, nhà văn phải tự chọn cho riêng mình một “nốt gam”. Ở đó, độ ngân nga, sâu lắng để lột tả một khía cạnh nào đó của đời sống đạt đến độ chín muồi. Nam Cao là nhà văn làm được điều đó.

Dựa vào chủ ý và cá tính sáng tạo của nhà văn mà các tác giả khẳng định Nam Cao có một phong cách, giọng điệu riêng không thể lẫn với bất kỳ ai. GS. Hà Minh Đức nhận xét: “… Nhưng không thể chỉ vì thế mà dễ lẫn lộn hoặc mờ cá tính. Cũng có thể có người thấy ở đây có một chút gì như tàn nhẫn, khinh bạc. Nếu có thật chăng thì điều đó chỉ dành cho cả chính mình và những nhân vật mang bóng dáng mình”. Trong khi đó, PGS. Trần Hữu Tá coi một số nhân vật trong tác phẩm là bóng dáng của nhà văn. Các tác giả Vương Trí Nhàn, Phong Lê, Huỳnh Lý, Nguyễn Hoành Khung… đều đồng quan điểm. Họ cùng gặp nhau ở kết luận: “Thật ra vấn đề chính để bộc lộ ra thái độ chính là ở nội dung, Nam Cao muốn có một thái độ khách quan để miêu tả nhân vật và cảnh ngộ”.

Nhóm ý kiến nhận xét nhà văn Nam Cao có tính chất châm biếm trào lộng cao, gồm các tác giả: Hà Văn Đức, Phan Cự Đệ, Trần Thị Việt Trung… Xin trích một ít dẫn chứng làm rõ vấn đề: “Nam Cao luôn đi vào sự thực của đời sống. Sự thực có bao nhiêu điều chua chát đau lòng… Ngòi bút của tác giả không khỏi có lúc chua chát, giận hờn, mỉa mai, trào lộng và chi phối đến chiều sâu của cảm hứng sáng tạo”. Hà Văn Đức nhấn mạnh: “Bên cạnh cái đôn hậu của Nguyên Hồng, cái thâm trầm sắc sảo của Ngô Tất Tố, Nam Cao đã góp thêm vào dòng văn học thực hiện phê phán một phong cách mới… lối văn mới, sâu xa, chua chát, và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con  người biết tin ở tài mình, ở thiên chức mình”.

Các tác giả Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức, Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Diễm Hương… đều cho rằng văn Nam Cao đầy những trang khái quát triết lý. “Nhà văn miêu tả một việc, một ý nhỏ mà nói đi nói lại vài lần là chuyện bình thường… Thế rồi khảm được vào trong tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ vụn vặt về các số phận, cảnh đời rồi ông nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát triết lý”.

Loại ý kiến xung quanh vấn đề nhân đạo trong truyện ngắn Nam Cao khá lý thú. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao không phơi bày rõ tinh thần nhân đạo mà nó vẫn tiềm ẩn, chìm khuất sau những cung bậc, sắc thái tình cảm khá đặc biệt. Vương Trí Nhàn cho rằng “không hề vuốt ve an ủi, nhằm đánh vào tình thương người đọc – Chủ nghĩa nhân đạo hướng vào toàn bộ đời sống tinh thần nơi người đọc ấy, thức tỉnh suy nghĩ rồi để mỗi người tự xác định lấy thái độ, tình cảm của mình”. Còn Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức thì cho rằng dường như cái giọng mỉa mai, chua chát chỉ là vẻ tỉnh táo bên ngoài của một tâm hồn đôn hậu, một chủ nghĩa nhân đạo sâu lắng bên trong…

Loại ý kiến xem xét mặt giọng điệu riêng biệt của Nam Cao dựa trên cấu trúc câu văn có tác giả Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Tuấn Anh… Tất cả ý kiến cho rằng chính vì câu văn gọn, dồn dập, chồng chất các hiện tượng đã thể hiện “cảm giác ghê tởm, khủng khiếp trước hiện thực quá tồi tệ, quá mức chịu đựng của con người”. Chúng chẳng những làm cho cái hiện thực buồn thảm hiện lên mồn một, đầy ứa, mà còn vang mãi lên, đau đớn ở trong lòng. Dường như không phải Nam Cao viết mà ông đang “sống” cùng mỗi câu chuyện được viết ra. “Câu văn Nam Cao chỉ là thứ câu văn “bị xé rách” về ngữ điệu, chúng nhắm nhẳng, đứt rối, cắn rứt, chì chiết, nghẹn ngào đầy kịch tính”.

Bên cạnh cấu trúc câu văn có liên quan giọng điệu là tên gọi nhân vật. Nam Cao là nhà văn mà những đại từ có tính chất miệt thị được dùng cho nhân vật có tầng số cao nhất. Các tác giả Huỳnh Lý, Nguyễn Hoành Khung, Trương Thị Nhàn… đều cho rằng: “Đừng lầm khi nhà văn có vẻ đồng tình với những “cụ Bá” “bà Phó”… và dửng dưng khi nói đến những con người nghèo khổ thường bị gọi là “hắn”, là “y”, là “thị”, là “mụ”… Chính giọng văn bình thản lạnh lùng khi cảm xúc nén lại đó khiến cho sự phẩn uất, xót thương càng tăng lên trong lòng người đọc”.

Trương Thị Nhàn đi sâu vào tên gọi “hắn”: chung quy những cái mất – cái được, những cái giận – đáng thương vào trong một tên gọi “hắn”, Nam Cao đã bộc lộ một cái nhìn hiện thực hết sức khách quan và nhân đạo. Nhưng đồng thời vẫn có một cái gì đó rất riêng trong thái độ của tác giả, như là lạnh lùng, xa cách, tách biệt hẳn cái phần “tôi” của tác giả trong cách gọi những nhân vật là “hắn”.

Nhìn chung, các ý kiến phần lớn đều gặp nhau một điểm là tính chất đa giọng của Nam Cao. Tác giả Phan Diễm Phương trong bài viết “Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao” nhận xét: “Văn Nam Cao giàu chất biểu lộ và biểu cảm. Điều này được tác giả lý giải qua nhiều mặt, với tư cách vừa kể chuyện vừa kể tâm trạng, truyện ngắn Nam Cao có thể ôm vào mình những cặp đối nghịch: sắc lạnh và tình cảm; tỉnh táo, nghiêm ngặt và chan chứa trữ tình. Những sự việc bé nhỏ, người thừa, hầu như suốt đời bị gắn chặt vào những bi kịch nhân sinh nho nhỏ, tụ vào trang sách của Nam Cao và ông rủ rỉ kể về nó một cách kỹ càng không biết nản. Lối kể chuyện của Nam Cao là lối kể nhiều giọng: nghiêm nghị và hài hước, trân trọng nâng niu và nhạo báng đay mỉa”. Cùng với loại ý kiến này có Phan Cự Đệ, Nguyễn Tri Niên, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thị Dư Khánh… Đặc biệt là tác giả Phong Lê trong bài tổng kết “Nam Cao, năm 1991” đã khái quát đầy đủ: “Văn Nam Cao hầu như có đầy đủ chất liệu: hài và bi, trào phúng và chính luận, triết lí và trữ tình, nghịch dị và nhàm tẻ, thô thám và chất thơ… Mỗi khía cạnh có thể tách riêng ra mà bàn, và hứa hẹn không ít những điều thú vị”.

Chính ở sự đan xen nhiều chất giọng như vậy đã tạo ra thế giằng co và đối lập trong giọng điệu. Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Thị Việt Trung… đều phát hiện ra thế “cheo leo” về tư tưởng của tác giả. Nam Cao tự thách thức mình “trên này là chủ nghĩa nhân đạo, dưới kia là thái độ nhục mạ con người, trên này là chủ nghĩa hiện thực vinh quang, dưới kia là chủ nghĩa tự nhiên đồi bại”. Ngoài ra còn một số tác giả khi đi vào khai thác mặt giọng điệu trong truyện ngắn Nam Cao có đôi chỗ đối chiếu, so sánh với tác giả khác, trào lưu văn học khác như Lại Nguyên Ân, Đào Tuấn Ảnh, Vũ Tuấn Anh, Trần Đình Sử…

Gần đây hơn, ngày 25-03-2013, trên Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, tác giả Pham Thi Luong (tên không dấu) đã vận dụng lý thuyết điểm nhìn trong tự sự học để nghiên cứu truyện ngắn của Nam Cao trước năm 1945. Người viết đã chỉ ra bốn kiểu điểm nhìn chính của chủ thể trần thuật, đó là: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn phức hợp và điểm nhìn đơn tuyến. Sự đa dạng, linh hoạt các điểm nhìn trần thuật ấy đã tạo ra sự đa thanh, đa giọng điệu, sắc thái thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cho truyện ngắn của Nam Cao.

Trên Tạp chí VHNT, số 401, tháng 11-2017, tác giả Nguyễn Văn Tùng cũng đã nêu quan điểm: “Muốn có những nhận thức sâu sắc hơn, điều tất yếu là không thể bỏ qua những đặc điểm thi pháp thể loại của mỗi một nhà văn để tiếp nhận tác phẩm của họ. Bởi thế, qua bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn nữa đến việc cần dành một sự quan tâm thỏa đáng hơn nữa tới việc tìm hiểu nghiên cứu những đặc điểm thi pháp thể loại của mỗi nhà văn”. Về văn xuôi Nam Cao, tác giả Nguyễn Văn Tùng nhận xét khái quát thi pháp về phương diện như giọng điệu lời văn trần thuật; cách cấu tứ độc đáo; đóng góp vào sự trưởng thành của thể loại truyện ngắn ở năng lực phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, tài tình; cách khai thác hiện thực xã hội; và tạo dựng một hệ thống các chủ đề tư tưởng mang nhiều ý nghĩa khái quát lớn... của Nam Cao.

Hiện nay, theo Chương trình GDPT mới - 2018, học sinh THPT được tiếp cận truyện ngắn Nam Cao ở phương diện thể loại. Đó cũng là một cách tìm hiểu theo thi pháp học hiện đại.

Chính những nghiên cứu, đánh giá trên, có thể coi Nam Cao đại diện tiêu biểu xuất sắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945. Và là nhà văn hiện đại với biệt tài biết “đào sâu”, biết “khơi những nguồn” sâu thẳm nhất ở mỗi con người, ở cuộc sống. Vì vậy, thế giới truyện ngắn của Nam Cao luôn là mảnh đất phì nhiêu cho bao thế hệ độc giả, cho các nhà nghiên cứu yêu mến tìm hiểu, khám phá.

(Viết năm 1997, bổ sung ý tháng 8-2025)

T.N.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm