TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-26 18:46:02
mail facebook google pos stwis
271 lượt xem

Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, phối hợp cùng gia đình nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, vừa tổ chức thành công buổi ra mắt hai tác phẩm mới: “Chua ngọt đời văn”“Kẻ khôn hơn vua”. Trong không khí ấm áp và nhiều cảm hứng của buổi giao lưu, một số tham luận giá trị đã được trình bày, góp thêm những góc nhìn sâu sắc về hành trình sáng tác của ông.

Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn sinh ngày 31/10/1945 tại Sóc Sơn, Hà Nội. Thuở thiếu niên đam mê bóng đá, nhưng ông không có cơ hội trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Năm 1963, sau khi tốt nghiệp trung học ở Trường Chu Văn An, ông cùng 8000 bạn bè đồng trang lứa tham gia đoàn thanh niên xung phong Tháng Tám, tạm biệt Thủ đô để tỏa về những vùng khó khăn góp tay xây dựng cuộc sống mới. Ông được phân công nhiệm vụ ở Trạm cơ giới trồng rừng Dốc Đỏ đóng trên địa bàn Đông Triều, Quảng Ninh. Nơi đây, ông tập tành viết lách, và chính thức chào sân văn chương bằng truyện ngắn “Đêm sương muối” đoạt giải ba cuộc thi viết do Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng cục Lâm nghiệp tổ chức năm 1968.

Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn phát biểu tại buổi ra mắt sách - Ảnh: N.H.

Cùng thế hệ với Tô Ngọc Hiến, Lê Hường, Nam Ninh, Chử Văn Long, Trần Dũng, Phạm Ngọc Chiểu, Lưu Nghiệp Quỳnh, Đỗ Bảo Châu… trưởng thành trong dòng chảy văn học công nhân, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn được điều chuyển về Công ty Ô tô lâm sản Hà Nội năm 1970. Loanh quanh 36 phố phường vài tháng, ông phát hiện mình cần thực tế để viết, nên đăng ký tình nguyện vào Hương Sơn, Hà Tĩnh làm lái xe tiếp vận cho chiến trường miền Nam. Non sông thống nhất, ông được tuyển chọn nhân sự cho Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam, chính thức có mặt tại đô thị phương Nam tháng 11/1975 và định cư đến bây giờ.

Hồi ký “Chua ngọt đời văn” của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn không viết theo trình tự thời gian. Ông thông qua 11 cuộc trao đổi với các đồng nghiệp thân thiết, để kể lại quá trình sáng tạo của bản thân, từ câu chuyện “Nhà văn có thể sống bằng nghề?” đến câu chuyện “Nên có cách để nhà văn bớt yếu thế”. Trong hồi ký, ông bày tỏ quan niệm: “Tôi viết văn chỉ với mục đích sống bằng nghề và vì một xã hội tốt đẹp hơn, nên luôn bắt đầu ở mức thấp nhất, vừa với sức mình, để còn đi đường dài… Từ khi quyết định chọn khiêm tốn thử sống bằng nghề, tôi mới ngộ ra, văn chương càng ít hoang tưởng thì hành trình sáng tác càng thoáng”. Đồng thời, trong hồi ký, ông cũng phác họa bức tranh sinh hoạt văn chương một thời: “Khi bắt đầu nổi lên với mấy tiểu thuyết “Những khoảng cách còn lại”, “Đứng trước biển”, “Cù lao Tràm”, tôi hay được các hội văn nghệ, nhà máy, xí nghiệp, trường đại học mời đến nói chuyện hoặc thảo luận về văn học. Hồi ấy, chưa có văn hóa phong bì. Nói chuyện xong, thường được đãi bữa nhậu, rồi kèm theo quà. Ở các tỉnh, họ đưa lên xe chục ký gạo, lạc, đậu xanh hay vài ký tôm khô, kèm giấy chứng nhận hợp pháp để khỏi bị quản lý thị trường tịch thu. Còn ở thành phố Hồ Chí Minh, thì họ cho bột ngọt, thịt cá hộp, thùng mì tôm…”.

Chủ trương sống bằng nghề, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn xin rời biên chế để ưu tiên toàn bộ tâm sức cho chữ nghĩa. Ông không chỉ viết văn, mà lấn sang cả sân khấu, điện ảnh và truyện hình. Tạm tổng kết gia tài Nguyễn Mạnh Tuấn cho đến khi ra mắt hồi ký “Chua ngọt đời văn”, ông có 9 tập truyện ngắn, 12 tiểu thuyết, 17 kịch bản phim chiếu rạp, 23 kịch bản phim truyền hình nhiều tập, 2 kịch bản sân khấu và 2 bộ truyện thiếu nhi 11. Để có được khối lượng tác phẩm đồ sộ như vậy, không thể không nhắc đến một may mắn của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn là nhận được sự thấu hiểu và sự hỗ trợ hết mực từ bạn đời – nhà thơ Hà Phương. Nhờ khả năng thu vén mọi sự lớn nhỏ của người vợ tào khang, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn yên tâm đọc rồi viết và viết rồi đọc. Thậm chí, nhà thơ Hà Phương còn lo liệu phát hành sách cho chồng, làm phiên dịch cho chồng mỗi khi làm việc với đối tác quốc tế.

Hồi ký “Chua ngọt đời văn” đầy ắp chi tiết lôi cuốn của một tác giả nhiều trải nghiệm văn chương. Bởi lẽ, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn không chỉ có những tác phẩm ăn khách, mà ông cũng là người duy nhất trong giới cầm bút đương thời phải mất 7 năm theo đuổi một vụ kiện để lấy lại danh dự, vì những kẻ tung ra tài liệu giả mạo để cáo buộc bôi nhọ ông vi phạm bản quyền kịch bản phim “Hải đường trắng”. Khi hai tiểu thuyết “Đứng trước biển” và “Cù lao Tràm” bùng lên một hiện tượng xã hội, ông cũng trải qua ngày tháng sống giữa sự phản ứng gay gắt và sự ủng hộ ấm áp. Hơn thế nữa, sức ảnh hưởng từ trang viết đã giúp ông có cơ hội gặp gỡ những lãnh đạo hàng đầu quốc gia như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị Định…

Trong hồi ký “Chua ngọt đời văn”, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn hé lộ ông từng đính hôn với Chín Huệ, em gái của đồng nghiệp Dương Thanh Bình ở Cục Báo chí Xuất bản miền Nam. Ông đã về Thới Bình, Cà Mau hạnh ngộ Chín Huệ và hứa hẹn trăm năm. Dù hoàn cảnh trớ trêu khiến đám cưới không thành, nhưng tính cách Chín Huệ cùng với thái độ sống của nguyên mẫu Năm Trầu (chị vợ của nhà thơ Lê Điệp) đã được ông hun húc tinh thần các nhân vật trong tiểu thuyết “Cù lao Tràm” lừng lẫy. Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn tiết lộ nguồn tư liệu để một người gốc Bắc như ông có thể viết được “Cù lao Tràm” mang không khí sông nước Cửu Long: “Chủ yếu ở những cuốn sách về đất và người Nam bộ của các học giả trong, ngoài nước đang nằm im trong Thư viện tổng hợp TP.HCM. Tôi chỉ may mắn đọc được và chuyển thể thành tiểu thuyết. Do một mình không đủ sức gánh vác, nên tôi nhờ chị Năm Trầu ở Bến Tre và em Chín Huệ ở Cà Mau chia sẻ”.

Sống bằng nghề, thì thu nhập của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn như thế nào? Tập truyện ngắn đầu tay “Tôi vẫn trở về nhà máy cũ” do Nhà xuất bản Thanh Niên in năm 1978, được trả nhuận bút 4000 đồng (lương cán sự bậc 5 lúc ấy được 72 đồng) đủ để ông mua một căn nhà mặt tiền trên đường Hai Bà Trưng khu vực trung tâm TP.HCM. Nhuận bút tiểu thuyết đầu tay “Những khoảng cách còn lại” in năm 1980 với tổng số 160 nghìn bản, đủ để ông mua một miếng đất 1200 mét vuông khu vực làng hoa Gò Vấp, hiện tại làm trường mầm non Hoa Mai do con gái của ông điều hành.

Nhuận bút nước ngoài trả cho nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, hoàn toàn không giống như sự đồn thổi hay sự tưởng tượng. Tiểu thuyết “Đứng trước biển” dịch sang tiếng Pháp năm 1983 được trả nhuận bút là một chai rượu vang thương hiệu Bordeaux, dịch sang tiếng Nhật năm 1984 được trả nhuận bút là một hộp bút loại xịn ở xứ sở Phù Tang. Tiểu thuyết “Những khoảng cách còn lại” dịch sang tiếng Nga năm 1989 được trả nhuận bút 3500 rúp (thời giá tương đương 1,2 triệu đồng Việt Nam, mua được 4 chỉ vàng).

Còn nhuận bút kịch bản phim nước ngoài cũng oái oăm như nhuận bút sách. Năm 2008, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn nhận được 1,4 tỷ đồng cho kịch bản phim truyền hình “Huyền sử thiên đô” 72 tập, 700 triệu đồng cho kịch bản phim truyền hình “Thái sư Trần Thủ Độ” 35 tập. Cùng lúc, ông được hãng phim BiFrost của Mỹ mời sang đảo du lịch Cebu của Philippines và lo toàn bộ chi phí ăn ở đi lại, để viết kịch bản phim. Trong vòng ba tháng, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn viết được hai kịch bản phim “Nước mắt phương xa” và “Thủ lĩnh”, mỗi kịch bản phim được trả 14 ngàn USD (thời giá tương đương 450 triệu đồng Việt Nam).

Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn sử dụng chất liệu văn chương rất linh hoạt. Từ tiểu thuyết, ông dễ dàng chuyển thể sang điện ảnh, và ngược lại. Ví dụ, tiểu thuyết “Những khoảng cách còn lại” được ông viết thành kịch bản phim “Xa và gần”, còn kịch bản phim “Biển sáng” thì ông viết thành tiểu thuyết “Đứng trước biển”. Có sở trường đặc biệt ở dòng văn chương mang tính luận đề, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn thú nhận, hầu hết tác phẩm của ông đều được sáng tác theo đơn đặt hàng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trớ trêu, như năm 1987, ông được Ty Thủy lợi Đắk Lắk đón đưa nồng nhiệt hơn cả tháng để viết về thành tựu xây dựng hồ đập. Thế nhưng ông chỉ viết được kịch bản phim tài liệu 45 phút “Giọt nước cao nguyên”, và dành phần lớn kết quả chuyến đi cho tiểu thuyết “Yêu như là sống” phản ánh thanh niên đô thị lập nghiệp trên những đồi cà phê. Ông khẳng định: “Nếu Nhà nước đặt viết về những điều tốt đẹp của Nhà nước, tôi sẽ viết về những điều tốt đẹp mà tôi thấy. Trường hợp chẳng có điều gì tốt đẹp, tôi sẽ viết về những ước muốn tốt đẹp, cuộc đấu tranh cho những điều tốt đẹp. Cho đến nay, đơn đặt hàng của các hãng phim, các đài truyền hình và nhà xuất bản, đến tay tôi, toàn yêu cầu viết tác phẩm chính luận chống tiêu cực, chống tham nhũng, lên án sự tha hóa của con người, của lớp cán bộ có chức có quyền nhưng mất phẩm chất”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm