- Bút ký - Tạp văn
- Nhớ mãi Bác cả Trọng
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Đại tá TRẦN THẾ TUYỂN
Nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng
Cách đây ít ngày, nghe tin Bác cả “yếu lắm rồi”, chúng tôi vội chạy tới nhà thăm. Ở tuổi gần 90, Bác như ngọn đèn trước gió. Lúc mê không nói, tỉnh lại, bác gọi tên chúng tôi, những học trò, đồng nghiệp lớp đàn em, như tiếng vọng từ trong tiềm thức. Bác nói trong cơn mê sảng: “Chú ấy (…) sống được lắm! Ở đời, tài năng do trời cho; sống chân thật, tử tế phải tu dưỡng, rèn luyện mà nên. Các chú phải sống thật với mình và với mọi người…”.
Tôi không cầm lòng được khi nắm bàn tay bác đang lạnh dần. Bác dặn chúng tôi như lời người thầy, bậc cha chú trăng trối với học trò, con cháu.
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển và Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng
Nhớ lại cách đây hơn 40 năm, khi cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp đất nước Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng đang diễn ra, một ngày Bác cả dẫn đầu nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân vào làm việc với Quân khu 7. Trưa ấy, chúng tôi tiếp đoàn. Làm việc rất nghiêm túc, trí tuệ. Khi “trà dư tửu hậu”, Bác cả Trọng như một nhà Nho với những bài thơ cổ uyên thâm và sự “đạo mạo” của một ông đồ.
Trước khi trở thành nhà báo Quân đội, Phạm Đình Trọng là một thầy giáo. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh, bác vào bộ đội. Tổ chức phân công bác làm chủ nhiệm và trực tiếp dạy văn hoá cho bộ đội và thiếu sinh quân. Thế hệ học trò Trường Thiếu sinh quân mang tên Nguyễn Văn Trỗi thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đến nay vẫn không quên được thầy Trọng. Khi về Báo Quân đội nhân dân, trực tiếp giúp việc cho Bác cả Trọng, tôi đã chứng kiến tình cảm của các cựu học trò Trường Nguyễn Văn Trỗi dành cho thầy. Lớp học trò ấy phần lớn đều đã trưởng thành; có nhiều vị thành tướng lĩnh, có người là Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Nhưng gặp thầy Trọng, ai cũng lễ phép, đúng mực như xưa. Họ quý trọng nhân cách của người thầy thời họ chập chững bước vào đời.
Với riêng tôi, trực tiếp công tác với Bác cả Trọng gần 15 năm tại Ban đại diện phía Nam, tôi thầm cảm ơn đời đã cho mình gặp được người thầy, người anh, người bạn vong niên.
Nhà báo Phạm Đình Trọng là người thầy của chúng tôi không chỉ ở các bài viết, nhất là những bài “ký chân trang” thấm đẫm tình người, tính phát hiện và gợi mở, mà còn ở nhân cách của người cầm bút: trung thực, không bị cám dỗ, không lùi bước trước những lời đe dọa...
Bác cả là người anh đáng kính của chúng tôi chính ở chỗ bác luôn nâng đỡ, tạo điều kiện và bảo vệ chúng tôi khi làm việc đúng lương tâm, đúng pháp luật. Và điều nữa, bác dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tôi nhớ những năm cuối thế kỷ XX, được sự ủng hộ của Tổng Biên tập Báo Quân đội nhân dân, Bác cả Trọng chủ trương “mở cửa” Ban đại diện phía Nam. Về chuyên môn, bác đề xuất Ban Biên tập cho in phụ bản phía Nam; chủ động tổ chức các vệt bài phù hợp với địa bàn, thực tế. Về kinh tế báo chí, bác trực tiếp gặp thủ trưởng Tổng cục Chính trị và Tổng Biên tập xin cơ chế.
Lần đầu tiên, Ban đại diện cho “thuê” mặt bằng, công năng dư thừa. Trước sự phát triển của thị trường phía Nam, bác đề xuất in phụ trương quảng cáo, tự giới thiệu tại nhà in phía Nam. Bác còn kết nối lãnh đạo các tỉnh, thành phố; Bộ Tư lệnh các Quân khu, Quân đoàn ở phía Nam mở Văn phòng đại diện, thường trú của Báo Quân đội nhân dân tại Cần Thơ, Đà Lạt, Buôn Ma Thuột; có lúc “với tay” ra tận Đà Nẵng…
Mở cửa, thử nghiệm, bên cạnh thành công, tất có hệ luỵ. Là Phó trưởng ban, tôi được bác giao nhiều việc. Khi thuận lợi thì vui vẻ, khi khó khăn lại có “lời ong tiếng ve”, thậm chí cả đơn thư… Bác cả động viên tôi: “Chỉ sợ chú tư túi, còn không thì cứ để anh chịu trách nhiệm”. Bác còn nói vui: “Chú đi tù thì anh vào ở cùng hoặc mang cơm cho chú”!
Nhà báo Phạm Đình Trọng còn có tố chất của một nhà văn hoá, tâm hồn nghệ sĩ. Đọc các bài viết của ông, chúng tôi cảm nhận được những tầng vỉa của sự uyên thâm.
Về tâm hồn nghệ sĩ, những người gần gũi ông đều thấy rõ. Ông là một trong những người góp phần lan tỏa văn hoá dân tộc, đặc biệt là Quan họ, Chèo cổ ở các địa phương phía Nam. Để làm được điều ấy, ông từng nghỉ phép ra tận làng Diềm (Bắc Ninh), cái nôi của Quan họ để nghiên cứu về nguồn gốc và tinh hoa của loại hình nghệ thuật này. Vì thế, ông hiểu rõ “vang – dền – nền – nẩy” và bản thân ông hát chuẩn một số bài Quan họ cổ như “Ăn ở trong rừng”, “Thân lươn bao quản lấm đầu”…
Người thầy, vị chỉ huy đáng kính, người anh, người bạn vong niên thân thiết của chúng tôi đã trút hơi thở cuối cùng về với tổ tiên. Ông đi xa nhưng còn mãi với chúng tôi bóng dáng người lính Cụ Hồ, sống trọn đời cho đất nước, quê hương và đồng đội.