TIN TỨC

Phạm Phương Lan: Lời yêu vẫn đầy

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-03-28 12:02:18
mail facebook google pos stwis
1938 lượt xem

 

       Nhà thơ Bùi Phan Thảo

 Gặp ngoài đời, người ta thường thấy Phạm Phương Lan trong dáng vẻ tươi tắn, yêu kiều. Một người dẫn chương trình duyên dáng, sắc sảo. Một nhà thơ xinh đẹp, khả ái. Nhiều cách nói, nhiều người nói về Lan, đều quy về một người đàn bà đẹp, trời cho cả nhan sắc và tài thơ. Thân hơn một chút, hiểu thêm một chút, Phạm Phương Lan là một người thơ, yêu thơ. Trong thơ lời yêu vẫn đầy. Thơ như đồng hành, thơ đem hương hoa tặng Lan dọc đường đời.

Đọc thơ Phạm Phương Lan, lắm người đôi lúc phân vân: Kiêu hãnh đấy, nhan sắc đấy nên đa đoan đấy, vậy mà thơ pha lẫn yếu đuối, dịu dàng, không gian thơ bàng bạc nỗi buồn. Nhưng ngẫm lại, điều đó là tất yếu, những đa đoan đời gói hết vào thơ. Chính cuộc sống đem lại sắc màu cho thơ Phạm Phương Lan với khoảng trời thơ riêng Lan, nhất là khi được đọc “Mật ngữ em”, tập thơ mới nhất của Phạm Phương Lan, NXB Hội Nhà văn. Một tập thơ đầy đặn, ấp ủ nhiều năm của nhà thơ, đề tài khá đa dạng bên cạnh mạch chủ đề chính là tình yêu. Tập thơ cho thấy độ chín trong ngòi bút, từ tư duy thơ đến thi pháp; ngôn ngữ thơ uyển chuyển, lúc phóng khoáng, nồng nàn, khi dịu dàng, mềm mại. Ngôn từ đã có sức nặng, tạo những dấu ấn cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật đan xen sự chân thành, dễ dàng tạo sự thấu cảm giữa những tâm hồn đồng điệu.


Bìa tập thơ “Mật ngữ em” của Phạm Phương Lan.

Dĩ nhiên với người đẹp bao giờ cũng là thơ tình đi trước. Người hồng nhan, tình yêu thường buồn nhiều hơn vui, thơ Phạm Phương Lan, vì thế cũng đầy những hư hao, khắc khoải, những nồng nàn dấu yêu và mất mát, chia lìa.

Mở đầu tập thơ, Phạm Phương Lan cho ta thấy một tình yêu đang độ nồng nàn. Ngày mới đến thật xanh, điều gì khiến nàng lật tung cả những ngày, tóc, buổi sáng, em và tôi?

“Lật tung ngày hôm qua

em tìm một vần thơ mới

lật tung từng sợi tóc mây

năm ngón ngắn dài mỏng miết

lật tung buổi sáng hôm nay

ngực thơ nõn nà đồng vọng

lật tung

em và tôi

khát thèm

cuồng vọng” (Khấp khởi ngày xanh)

Câu trả lời đã rõ. Mũi tên của thần tình ái lao đi. Và người đó hiện ra. Và ngời ngời hạnh phúc. Và chất ngất nhớ nhung:

“Anh mỉm cười từ trong từng nếp nghĩ

từng nụ cười

dáng đứng của em

anh mát lành hệt như sương đêm

dịu dàng, mơn man như gió

thần tình yêu ơi

ta hận người

bắt ta nhớ anh” (Anh – Lời yêu sương đêm)

Không phải người đàn bà đẹp nào cũng truân chuyên, nhưng hiếm người đàn bà đẹp có tình yêu lặng sóng. Phạm Phương Lan trời cho nhan sắc thì cũng lấy đi nhiều sự bình yên trong cuộc đời. Và cũng công bằng, trả lại cho Phạm Phương Lan được làm thơ. Nên những bài thơ đó cũng quyến rũ, đa đoan, đường nét lúc phô bày khi ẩn giấu, thấp thoáng những triền mơ.

“Ừ sóng cứ lao xao

nỗi nhớ anh lõa thể

chỉ lòng em dâu bể

chiều ngưng trôi hoang tàn

nỗi nhớ anh cũng thể

tỏa hương chiều hoang mang” (Nỗi nhớ lõa thể)

Tựa đề bạo dạn, tâm ý phóng khoáng, lời thơ đẹp. Lõa thể đặt trong ngữ cảnh này như ta hình dung một bức chân dung tuyệt tác của các danh họa. Nhưng phơi bày ra bởi sóng tràn qua, sóng đánh cuốn đi những gì em muốn giấu, muốn cất giữ riêng anh trong nỗi nhớ. “Lòng em dâu bể, chiều ngưng trôi hoang tàn”, để rồi “tỏa hương chiều hoang mang”. Phải yêu đến thế nào mới có những dòng thơ viết như lên đồng, đẹp một cách hoang dại, cho người đọc cũng rối bời, hoang mang.

Thơ Phạm Phương Lan có rất nhiều nỗi nhớ. Trong chập chờn tỉnh mê, thương nhớ ngập tràn, có lời cất lên như một khẩn cầu. Đâu rồi người đẹp kiêu sa, hay đã quên mình đi để nhớ người trọn vẹn?

“Em có được buồn không

khi lòng tái tê nỗi nhớ

muốn gào thét một cái tên mà sao không thể

anh trôi như áng mây trời

chúng mình xa nhau vừa bằng tiếng nấc

nghẹn ngào rơi giữa thinh không”

Cũng tiếng nấc ấy, rơi giữa trời mà vang vọng:

“Xin đấng chúa trời cứu rỗi hiện sinh

cho em được quên đi tháng ngày trìu mến

cho phút giây trong nhau hòa quyện

chỉ còn là khoảng trống hư không” (Xin người đừng lặng câm)

Thơ Phạm Phương Lan không có những tuyên ngôn hay dài dòng đa sự. Thơ cũng như tình yêu, có lý lẽ riêng và có cả những ngập tràn phi lý. Nhưng có hề chi khi cứ dại khờ, yêu không toan tính. Có rất nhiều những tình yêu như phương trình vô nghiệm, bài toán không đáp số, khu rừng không lối ra mà vẫn đắm đuối đời người. Yêu là yêu, thế thôi. Thế thôi mà xa xót, đắng cả một đời.

“Người chở nụ cười về đâu

mây trời lập trình u ám

ta vũ vần không giới hạn

buồn rơi, vô nghiệm cuộc tình”

Biết là vô vọng mà vẫn mong chờ, khắc khoải:

“Người chở giùm ta màu nắng

về phía bảy sắc cầu vồng

người chở giùm ta màu xanh

về phía chân trời hy vọng” (Tình vô nghiệm)


Nhà thơ Phạm Phương Lan.

Những câu thơ đẹp và buồn. Khác với không ít người làm thơ thích trưng trổ nỗi buồn, như một trang sức, Phạm Phương Lan chọn cách đi bên nỗi buồn, đi cùng nỗi buồn. Trong thơ Lan, nỗi buồn lặn vào hay khúc xạ, trầm tích hoặc lấp lánh, đôi khi như chấm sáng nhỏ trong đêm, cánh chim cuối trời, người đọc vẫn nhận ra, đồng cảm, sẻ chia với nhà thơ. Cái buồn từ trong ra ngoài, từ ngoài thấm vào trong, buồn như một bản năng, thuộc tính, nhưng là cái buồn sâu lắng, dịu dàng. Soi mình trong nỗi buồn nên dường như câu thơ trong veo hơn.

“Chẳng cần buồn ngày hôm qua

đắng cay đừng nhớ

chỉ cần biết trong tôi

em là viên ngọc bích

nhiệm màu” (Nụ cười thênh thênh)

Phạm Phương Lan tự sự về mình một cách nhu mì, một lời thưa nhỏ nhẹ, một phác thảo chân dung. Không kiêu sa, khoảng cách vừa đủ, lửa trong mưa vừa ấm, nụ cười an nhiên:

“Không khái niệm mùa hoa, màu sắc cứ rong chơi

em thuộc về miền thiểu số

người đàn bà thơ ẩn trú trong em như cơn gió

du dương thổi suốt bốn mùa

em thắp đèn, nhóm lửa trong mưa

thổi bạt giá băng lòng ai bão nổi

gieo ngọn nguồn yêu thương, chờ bình yên ngày mới

khoe nụ cười từ trong trái tim đau” (Người đàn bà đa đoan)

Lúc này, người đàn bà thơ lên tiếng, sau những lời như giãi bày nhỏ nhẹ lại là thông điệp có phần mạnh mẽ, như thêm một lần xác tín nữ quyền. Những nhan sắc thanh tao, với trái tim đầy những vết cứa cuộc đời vẫn chất chứa yêu thương. Những người đàn bà làm thơ có quyền tự hào và tự tin bước qua những thác ghềnh:

“Vâng, chúng em

những người đàn bà rong chơi

đã hơn nửa đời cuốc cày trên cánh đồng chữ nghĩa

gia tài lận lưng mỗi đứa chỉ dăm ba cuốn sách dâng đời làm mật ngữ

thừa nửa mảnh đời không biết ghép vào đâu

những người đàn bà không biết lả lơi

chỉ quắt quay thương tiếng à ơi phận bạc

cùng nắm tay nhau vượt qua ghềnh thác

rắt réo dập vùi miệng thế gươm đao” (Phơi khô muộn phiền)

Xưa Quang Dũng với “Đôi bờ” từng viết “Thoáng hiện em về trong đáy cốc/ nói cười như chuyện một đêm mơ”, thì nay trong đáy cốc của Phạm Phương Lan là vầng trăng tan:

“Ta ngỡ ngàng chẳng biết vì đâu

Trăng đã tan vùi đáy cốc

Rượu nhạt rồi mà môi em mím chặt” (Thừa ta cạnh đêm rằm)

Chiếc cốc ấy đã rơi, rượu đã không còn. Thêm một cuộc tình đổ vỡ, chia ly, không thể cứu vãn:

“Em đàn bà

đã bao lần vụn vỡ

nỗi đau này là vết rạn mà thôi

anh được gì khi tim em tan vỡ

được những gì ngoài nước mắt em khô?” (Tầm gai thay áo)

Nhưng không thể mãi than van, tiếc nuối. Dù có nghe dư vị chát đắng song qua những câu lục bát nhuần nhị này, đã dặn lòng phải bình tâm, dứt khoát ngẩng cao đầu mà bước:

“Từ ngày người bỏ vào thương

dăm ba nhỏn mặn, một lường chát chua

đảo điên dậu nát, màn thưa

thì coi như nợ đã vừa tính xong” (Thả gió đi rong)

Trong hành trình tiếp diễn của đời người, đôi khi lại dắt đưa về những miền ký ức. Buồn hay vui, hạnh phúc hay khổ đau thì cũng đã đong đầy, theo thời gian sẽ rêu phong, mờ dấu. Trong buổi chiều nào đó, gót hồng ngược miền gió, ngược vệt nắng, ngược bãi sông, để rồi:

“Ngược về ngày tháng bên nhau

trăm lần xác xao vụn vỡ

chòng chành vạt trời hương nhớ

ngược lòng huơ hoác sương mờ” (Ngược em)

Cứ thế, “Mật ngữ em” dắt đưa người đọc vào thế giới thơ Phạm Phương Lan để lắm khi thấy lòng ngổn ngang và “huơ hoác sương mờ”. Bên cạnh những tứ thơ táo bạo, lời thơ đắm say, những nỗi niềm đằm thắm, nhà thơ còn có những suy tư về đời một cách sâu sắc. Điển hình như bài thơ dưới đây về đại dịch Covid-19. Phải qua những thảm họa như đại hồng thủy hay những đại dịch, nhân loại mới nhận ra nhiều điều đã lãng quên hay xem nhẹ trong cuộc sống; những giá trị cũ và mới được nhận diện, con người sẽ phải thay đổi cách sống, nhìn về cuộc sống bằng đôi mắt khoan dung và lượng thứ hơn. Sau chiếc khẩu trang là những con người, kẻ xấu người tốt, ai rồi cũng phải lìa xa cuộc sống, ai cũng chỉ có một cuộc đời để sống. Một dấu lặng Phạm Phương Lan để lại cho người đọc tự suy ngẫm và đồng cảm với nhà thơ.

“Trong cái hỗn mang thời bệnh dịch

tôi nhận ra mặt người qua chiếc khẩu trang

sau chiếc khẩu trang ai người lầm lũi

ai cách ly ai, ai hờn tủi trách đời

ai chữa trị cứu người chẳng kịp nghỉ ngơi

ai đắng cay vung tiền bỏ mạng

thời dịch bệnh, lòng ngay gian lột trần như ban sáng

dẫu chiếc khẩu trang che kín mặt người

ai cười, ai khóc, vinh nhục ai ơi

ai nào khác ai sau ba tấc đất” (Sau lớp khẩu trang)

Trong chừng mực nào đó, thơ cũng là cứu rỗi. Thơ đem lại sự cân bằng sau những chênh chao, bình yên sau đổ vỡ. Thơ như một nơi an trú đầy tin cậy, để tâm thế như nhiên. Và người đàn bà đa đoan như Phạm Phương Lan tự nhận vẫn cùng thơ đi bên nỗi buồn, vẫn là người đàn bà thơ kiêu hãnh. Sự tự tại của tâm hồn như một lời nhắc, bởi lời yêu chưa cạn.

“Vượt đau khổ úa nhàu

vẽ vào cao xanh bồng bềnh trắng muốt

chấm đôi mắt nhung huyền thảng thốt

bật tiếng khóc, cười, sướng, khổ nhân gian” (Người đàn bà đa đoan)

Và đâu đây ta nghe tiếng cười, đủ để vui trở lại, để tiếp tục cho đời những câu thơ đẹp:

“Cuộc đời bến đỗ nơi nao

hờn ghen chi phận má đào tơ duyên

phơi khô cho hết muộn phiền

nụ vui khanh khách đầy phiên chợ đời”.

TP HCM, thu 2021

B.P.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm