TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ - Một trường hợp đặc biệt của thi ca Việt Nam hiện đại

Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ - Một trường hợp đặc biệt của thi ca Việt Nam hiện đại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-03-20 08:19:13
mail facebook google pos stwis
1680 lượt xem

TRẦN THỊ HỒNG HOA

Huỳnh Văn Nghệ là một trong những nhà quân sự tài ba, lập nhiều chiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài tài năng quân sự, ông còn được trời ưu ái cho một tâm hồn thi ca mẫn cảm, được nhân dân yêu quý phong tặng danh hiệu “thi tướng”. Và nhìn trên phương diện văn học sử, có thể nói Huỳnh Văn Nghệ là một trường hợp đặc biệt của thi ca Việt Nam hiện đại nói chung và phong trào Thơ mới nói riêng.

1. Phong trào Thơ mới khởi phát từ năm 1932 và kéo dài đến 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Khi lựa chọn tác giả đưa vào trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã không đả động gì đến cái tên Huỳnh Văn Nghệ cũng như một vài tên tuổi khác. Nguyên do thật vô cùng. Chỉ có một sự thật chắc chắn rằng những sáng tác đầu tay của Huỳnh Văn Nghệ diễn ra trong thời kì Thơ mới và cũng hòa chung với âm hưởng chủ đạo của thơ ca giai đoạn này. Trong bài Chiếc lá thị thành, nhà văn Mộng Tuyết cho biết Huỳnh Văn Nghệ có những bài thơ tình “mùi mẫn” đậm chất lãng mạn của Thơ mới trên báo Sống. Số 26 ra ngày 21 tháng 8 năm 1935 của báo này đăng bài Xé nát thơ tình của ông với những câu thơ: Chiều nay anh xé nát những thơ tình/ Thả tung theo gió chiều như đàn bướm/ Rủ nhau nhào xuống bể xanh sóng gợn/ Để hợp bầy cùng bóng bướm dưới dòng xanh/ Bỗng hai đàn ướt cánh nổi lênh đênh/ Vì anh sợ… rồi đây anh cũng thế/ Nên quá yêu em anh không buồn kể/…/ Vì yêu em anh nhúng ướt đôi cánh vàng/ Rồi âm thầm thương tiếc khoảng không gian.

Báo Sống số 27 ra ngày 28 tháng 8 năm 1935 đăng bài Trăng tàn trên sông phảng phất phong vị của Tì bà hành ngày trước. Bài thơ là cuộc trò chuyện giữa đôi tình nhân cũ: Bên bờ sông, tiếng cú gọi trên cây/ Trong bóng tối gieo mối buồn trên quãng vắng. Khi chàng trai vừa nghe thấy tiếng hò quen thuộc và vui mừng tìm tới mong nối lại tình xưa cũ Kìa ai ơi. Hãy đợi nhau cùng/ Trăng khuya sắp tắt, gió thổi lạnh lùng/ Anh đi tìm nàng Ái Ân yêu dấu/ Trên chiếc thuyền tự bao giờ chưa đậu/ Đã mỏi mê anh chửa gặp người yêu/ Ngày đêm trôi bên cảnh vật đìu hiu/.../ Em phải chăng người lau ráo lệ anh/ Vừa khuyên lơn an ủi, dỗ dành/ Cho anh bớt buồn, thương giữa chốn mênh mông bát ngát thì bị cô gái đáp trả một cách lạnh lùng, gay gắt: “Trăng đã tàn, đêm sẽ tối, ai ơi”/ Đi tìm bạn ái ân? Ôi, đã muộn rồi/ Người đã yêu anh, anh không muốn biết/ Bỏ ai lại bên sông với bao nhiêu thương tiếc/ Anh rứt ra đi phỉ chí tang bồng/ Để mặc ai ôm mãi vết thương lòng/ Mấy năm qua chỉ vì anh đau khổ/…/ Nay anh trở về than khóc bên sông/ Thì kẻ anh yêu nay đã có chồng/ Ái Ân nay không còn là Ái Ân ngày trước/ Đừng kiếm mất công không bao giờ tìm được/ Hãy về đi, trở lại con đường xưa/ Rồi quên em trong gió bụi nắng mưa.

Số báo 30 tiếp tục đăng bài Em không muốn của Huỳnh Văn Nghệ với những khát khao tình cảm nồng cháy như Xuân Diệu trong Vội vàng: Anh yêu em? Nơi nào? Anh hãy nói/ Mà mãi lắng tai nghe tiếng gọi/ Mà mãi âu sầu thương, nhớ vẩn vơ/ Để bên anh năm, tháng ai đợi chờ/ Này trông em: ánh xuân tươi sắp biệt/ Hãy yêu em kẻo trễ bạn lòng ơi.

Với nội dung thơ, giọng điệu thơ, âm hưởng thơ như thế, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng Huỳnh Văn Nghệ là một nốt nhạc trong dàn đồng ca Thơ mới 1932 - 1945. Tuy nhiên đây là một nốt nhạc đặc biệt. Bên cạnh những đặc trưng chung của Thơ mới, thơ Huỳnh Văn Nghệ giai đoạn 1932 - 1945 vẫn có những nét riêng khác biệt với các nhà thơ Thơ mới cùng thế hệ, trong đó điểm cốt lõi nhất là sự khác biệt về quan niệm thi ca. Đa phần các nhà Thơ mới đề cao nghệ thuật vị nghệ thuật, coi thơ ca là phản ánh tâm hồn lãng mạn của thi sĩ. Xuân Diệu từng viết Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây (Cảm xúc). Thế Lữ thì cho rằng mình chỉ là khách tình si/ Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể (Cây đàn muôn điệu). Tuy nhiên ở miền Nam, Huỳnh Văn Nghệ lại có một quan niệm khác về thơ ca. Mặc dù chưa quyết liệt, mạnh mẽ như Sóng Hồng Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền (Là thi sĩ) nhưng quan niệm thơ ca của Huỳnh Văn Nghệ rất rõ ràng: Dùng ngòi bút phục vụ cho công cuộc giải phóng đất nước, dân tộc khỏi họa xâm lăng. Trong Trăng lên, ông đã mượn lời một người thi sĩ bày tỏ khát vọng có được tiếng đàn gảy lên khúc ca hận để thức tỉnh nhân dân cùng đứng lên chống kẻ thù chung, thống nhất hai miền Nam - Bắc: Rồi âu sầu thi sĩ bảo tôi rằng/ Muốn làm sao ta có sợi dây đàn/ Đem giăng thắng nối hai chòm Nam, Bắc/ Chờ tiếng xôn xao ban ngày đã tắt/ Ta trỗi lên khúc “Hận ngàn thu”/ Nghe đàn ta hăm lăm triệu đồng bào/ Bỗng nhớ rằng mình cùng chung nỗi hận/ Như bầy chim cùng chung số phận/ Trong một lồng sắt cứng, cánh còn non. Bài Mộng làm thơ là một tuyên ngôn đanh thép của ông sẽ đứng về phía nhân dân cần lao: Chàng chỉ muốn đề thơ bằng máu/ Trên mây hồng cho gió rải cùng trời/ Để những người đau khổ khắp nơi nơi/ Ngừng đau khổ/ Và thương nhau/ Khi thấy hàng chữ máu. Quan niệm thơ ca trên khá gần gũi với nhận thức của Tố Hữu trong Từ ấy: Tôi buộc lòng tôi với mọi người/ Để tình trang trải với trăm nơi/ Để hồn tôi với bao hồn khổ/ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

2. Với một quan niệm như trên, thơ Huỳnh Văn Nghệ chan chứa giá trị nhân đạo. Ông bộc lộ tình cảm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ, bất hạnh. Nhìn đám ma của người đàn ông trong mưa lạnh, ông ngậm ngùi cho người nằm xuống, cảm thương cho người vợ trẻ cùng đàn con dại bước theo sau: Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh/ Bốn người khiêng lắt léo chiếc quan tài/ Người vợ kêu trời khan cả giọng/ Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi/ Sau góa phụ còn hai con trẻ dại/ Dắt dìu nhau nheo nhóc khóc không thôi/ Và sau nữa… không còn ai nữa hết/ Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi (Đám ma nghèo). Ông ái ngại, xót xa cho người bà nghèo cứ mải miết bước đi như vô định để bán cau khô giữa trưa hè rực lửa nắng cháy da, cháy thịt: Trên đường cát xa thăm thẳm ấy/ Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn/ Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy/ Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn/ Gió bốc khói tung lên cuộn bụi trắng/ Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre/ Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám/ Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè (Bà bán cau).

Ngoài cảm hứng nhân đạo, tình yêu nước cũng là một chủ đề lớn trong thơ Huỳnh Văn Nghệ. Yêu quê hương, Huỳnh Văn Nghệ đã viết lịch sử đất nước bằng thơ. Bài Lịch sử quê hương của ông là lời nhắc nhớ với người dân miền Nam về cội nguồn của mình. Người miền Bắc và người miền Nam đều chung một nguồn cội, không thể phân chia thành các vùng miền khác nhau với các chế độ khác nhau như lời thực dân Pháp rêu rao, đầu độc: Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc/ Chán ghét vua quan áp bức/ Họ đạp núi rừng vượt sóng biển khơi/ Đi vào Nam làm lại cuộc đời/ Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc/ Có con sông cũng tìm hướng Bắc/ Vượt núi rừng ghềnh thác/ Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao. Ý thức Nam - Bắc chung nguồn cội ấy cũng biểu hiện rõ nét trong Nhớ Bắc, bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Nhớ Bắc thể hiện niềm tự hào về một dân tộc Việt Nam trọng tình, trọng nghĩa, ngàn năm văn vật. Con người Việt dù đi đâu về đâu vẫn nhớ về nguồn cội con Lạc cháu Hồng, vẫn nhớ về Thăng Long ngàn năm văn hiến, trái tim, biểu tượng của người Việt: Ai đi về Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Trong tâm thức của Huỳnh Văn Nghệ, đất nước như một người mẹ hiền trải qua bao năm tháng vẫn vững vàng che chở, nuôi dưỡng đàn con thơ: Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỉ/ Gót Cà Mau, đầu tận ải Nam Quan/ Cửu Long Giang buông dài làn sóng tóc/ Dựa Trường Sơn đứng gác Thái Bình Dương (Việt Nam).

Đề tài lớn nhất, xuyên suốt trong phần lớn sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ là cuộc sống, chiến đấu của quân và dân chiến khu Đ anh dũng, kiên cường. Chiến khu Đ là căn cứ địa cách mạng gắn liền với tên tuổi Huỳnh Văn Nghệ. Cái tên chiến khu, như lời ông tâm sự, ra đời trong một cuộc thảo luận bên ấm trà giữa ông và những người đồng chí đồng đội. Sau cùng chiến khu Đ là cái tên được lựa chọn, mở ra một trang sử huy hoàng của quân và dân Nam Bộ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp: Sau Nam Kì khởi nghĩa/ Trước cách mạng mùa thu/ Có một nhóm đồng chí/ Ra thành lập chiến khu/ Ngồi quanh một ấm chè/ Thảo luận suốt trưa hè/ Tên chiến khu bất khuất/ Đồng Nai hay Đất Cuốc/ Rốt cuộc Chiến khu Đ/ Đã bao mùa lá vàng rơi từ ấy/ Chiến khu Đ vẫn đỏ máu quân thù.

Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời nơi đây: Rừng đẹp như một bài thơ cổ/ Cành cao vượn hú/ Ríu rít tổ chim/ Bờ suối đỏ hoa sim/ Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa/ Đêm trăng một người một ngựa/ Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi (Rừng đẹp).

Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về những khó khăn, vất vả mà mình và đồng đội đã trải qua. Đó là những bữa ăn thiếu thốn, củ khoai, củ sắn chia nhau, là những buổi hành quân dài gian lao, mệt mỏi: Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa/ Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt/ Nước mắt ống tre, muối mè cơm vắt/ Nương áo nhu lần bước đêm rừng/ Mệt hoa mắt, mỏi rã chân (Hành quân).

Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về những năm tháng chiến khu nguy ngập trước sức tấn công điên cuồng của kẻ thù: Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu/ Mất nước ngọt bờ tre gió mát/ Thuyền tiếp tế lúa khoai chìm đáy nước/ Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ (Bờ sông bị chiếm).

Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ ngợi ca sự dũng cảm, kiên cường của người lính chiến khu. Mặc dù bị địch dọa nạt, tra tấn bằng hình thức dã man nhất là mổ bụng nhưng người lính trong Giữ bí mật vẫn nhất mực không khai: Tao quyết sẽ giết mày/ Khám phá điều bí mật/ Mổ bụng mày rõ ngay/…/ Nó rạch bụng ra coi/ Rồi mắt nó trắng nhợt/ Nhìn thấy mấy miếng khoai. Em gái nhỏ trong Em gái liên lạc chỉ cười trước lời hăm dọa cắt cổ, thả trôi sông của quân giặc: Lắc đầu em cố nói không/ Giặc hăm cắt cổ thả sông em cười. Và trong lúc thiếu thốn thuốc men, người lính đã cất cao tiếng hát để xua đi nỗi đau khi bác sĩ… cưa chân: Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương nước mắt tràn trề/…/ Cưa cứ cưa, xương cứ đứt/ Máu cứ rơi từng giọt đỏ hồng/ Hai tay anh siết chặt đôi hông/ Dồn đôi phổi vào trong tiếng hát/“Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc”/ Đã hát đi hát lại bao nhiêu lần/ Vẫn chưa đứt xương chân/ Vẫn chưa ngưng máu đỏ (Tiếng hát Quốc ca). Với bài thơ này, Huỳnh Văn Nghệ đã đưa tầm vóc của người lính chiến khu Đ lên tầm huyền thoại.

Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về tình cảm gắn kết toàn quân một ý chí chiến đấu chống giặc: Cũng có người vừa đi vừa mơ ngủ/ Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ (Hành quân); viết về niềm lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng sau cùng của cách mạng: Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin/ Việt Minh sẽ về chiếm lại sông xanh (Bờ sông bị chiếm).

Viết về chiến khu Đ, giọng thơ Huỳnh Văn Nghệ vút cao hào sảng khi nói về những chiến công của quân ta trong trận đánh diệt thù: Trảng Bom lửa cháy ngập trời/ La Ngà xe giặc bời bời giữa trưa (Tình súng).

Bắt đầu từ một nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ mới, nhưng không cần đến một cuộc chuyển mình Theo bờ tư tưởng ta lìa ta/ Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà, Huỳnh Văn Nghệ đã trở thành nhà thơ - chiến sĩ một cách tự nhiên nhất. Trong con người ông, phẩm chất dũng tướng và thi nhân kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn. Cả cuộc đời vừa đánh giặc vừa làm thơ, mặc dù khiêm tốn tự nhận Gửi lại bạn những vần thơ trên cát/ Và giờ đây tôi qua bến lên đường (Bên bờ sông xanh) nhưng với những gì cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và thơ ca, thi tướng Huỳnh Văn Nghệ đã trở thành huyền thoại trong nhân dân. Ông đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa, thỏa mãn Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai nam bắc đông tây (Nguyễn Công Trứ) của một trang hảo hán trong thời loạn.

Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm