TIN TỨC

Thơ Võ Miên Trường và những nỗi buồn riêng mang

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-11-10 06:10:53
mail facebook google pos stwis
2603 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Võ Miên Trường là gương mặt thơ nữ mới xuất hiện trong những năm gần đây nhưng người ta biết đến chị, ấn tượng về chị bởi những vần thơ đậm chất trữ tình.

Dù viết về mình, về người, về đời thơ chị cũng mang nỗi buồn sâu thẳm. Buồn về thân phận với trùng điệp những gập ghềnh, bất trắc, những va đập ngã nghiêng trong hành trình cuộc đời mà Võ Miên Trường đã nếm trải. Những âm vang đó khúc xạ qua lăng kính trải nghiệm của chị trở thành nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi và có thể theo nhà thơ suốt cả cuộc đời này.

Có lẽ, chỉ những người bạn bè thân thích, ruột thịt của nhà thơ Võ Miên Trường mới biết đằng sau những vần thơ trữ tình đó là bắt nguồn từ hiện thực những năm tháng khốn khó của chị và cả gia đình. Cuộc vật lộn, mưu sinh cơm áo đã làm vỡ tan bao giấc mộng của cô gái miền Trung xinh đẹp thuở nào. Trong bài Người đàn bà làm thơ, Võ Miên trường không ngần ngại tỏ bày:

Người đàn bà/ Mượn gió thả hương bay/ Tập làm thơ/ Trong nỗi nhớ vụng về xưa cũ/ Đối diện đêm/ Trở trăn tìm câu chữ/ Trải lòng mình ơi muối mặn gừng cay.

Người đàn bà làm thơ/ Ẩn giấu mình lặng lẽ/ Rồi một ngày/ Hồn thơ bất chợt ghé tìm...

Người đàn bà/ Ngồi hong từng con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm – đắng đót/ Đắng - giữ riêng mình/ Ngọt - gửi vào thơ

Người đàn bà/ Đắm mình trong những giấc mơ/ Gánh đa đoan đổ nghiêng bờ nghiệt ngã/ Đau đáu nỗi niềm/ Xô lệch mùa riêng...

Người đàn bà/ Đắng - Ngọt cứ làm thơ...

Chị tìm đến thơ, coi thơ như sự cứu cánh, nhờ thơ nói hộ cho chị bao điều. Bởi chỉ ở thơ, Võ Miên Trường mới giãi bày hết mọi ngõ ngách sâu kín của tâm hồn mình một cách rốt ráo nhất và chị có thể cảm thấy nhẹ lòng hơn để mà sống mà yêu cho trọn kiếp người.

Đó là những giọt nước mắt, là nỗi đau đến khôn cùng của phận người ly hương với bộn bề nỗi lo toan, vất vả. Phố người lận đận phận quê/ Tha phương chìm nổi/ Bộn bề áo cơm/ Vỉa hè/ Vất vả sớm hôm/ Thấp người bé họng/ Chỉ giòn tiếng rao/ Chợ người bán những xanh xao/ Người quê mua những chênh chao.../ Phận mình... (Chợ người). Đọc những vần thơ chị viết nghe sao mà xa xót. Đặc biệt là những phận người xa quê với đường đời chông, đầy bất trắc vì sự sinh tồn.

Gió bụi kinh thành và những bon chen, được thua cơm áo mà Võ Miên Trường đã trải qua, giờ đây chị cảm thấy thấm thía. Một nỗi buồn đã ăn sâu trong từng tế bào, từng thớ thịt. Buồn đến độ, có lúc chị muốn “trùng tu nỗi buồn”: Bất chợt cơn gió chiều nay/ Thổi từ/ phía ấy chân ngày em đi/ Đường bay/ bạt cánh thiên di/ Nghe phong phanh tiếng thầm thì - giá - như// Mai ngày tình hóa thiên thu/ Em về gom nhớ/ trùng tu nỗi buồn.

Người đàn bà giàu nghị lực như chị thì dù hoàn cảnh có thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm gục ngã. Ta gồng mình/ Gánh nặng kiếp phù sinh (Gánh).

Sự thật trần trụi của đời sống đi vào thơ Võ Miên Trường một cách tự nhiên và trở nên có hồn. Giữa đời thường và thơ nó như hòa quyện trong chị tạo nên một giá trị thẩm mỹ, dễ neo đậu trong lòng người đọc, bởi những cảm xúc mộc mạc, bình dị, chân thành. Cái chân thành ấy, được trái tim một người đàn bà thấu hiểu mọi lẽ nông – sâu, được – mất, trái tim ấy rất nhạy cảm, rưng rưng khi ngẫm về mình về người! Nửa đêm/ Nửa tỉnh nửa say/ Nửa lay lắt nhớ/ Nửa thương vay đời/ Nửa đau phận bạc như vôi/ Nửa cười như rượu say người.../ Nửa đêm... (Trăn trở).

Có lẽ thế mạnh của chị là thơ lục bát, chị có hẳn 1 tập thơ lục bát (Giữa bộn bề tôi) gồm 60 bài. Không hẳn cả tập bài nào cũng hay, nhưng phải thừa nhận rằng Võ Miên Trường có một số bài lục bát viết khá thành công. Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài năng thật sự thì lục bát dễ đi vào dễ dãi, kiểu ghép vần ráp chữ. Thơ lục bát Võ Miên Trường đã không phạm vào điều đó. Tôi cho rằng chị là người làm thơ lục bát có “nghề”. Nhà thơ Võ Miên Trường có những câu lục bát, bài lục bát để lại trong lòng người đọc những dư ba. Bởi chị biết làm mới thể thơ lục bát qua cách sử sụng câu chữ, hình ảnh, tứ thơ và cách vắt dòng.

- Đêm

cào cấu những tội tình

Rách toang nỗi nhớ thương mình trắng tay

(Cánh phù du bay)

- Ai mang nắng đổ vào chiều

Mà hoàng hôn trượt nát điều răn xưa

(Tím điều răn xưa)

- Ừ thôi

Trả nắng cho ngày

Trả

Trăng cho những rằm đầy khuyết nhau

(Trả)

Từ những trải nghiệm của bản thân người đàn bà luôn chịu nhiều thua thiệt, sẵn sàng hi sinh tất cả vì gia đình, chồng con nên nhà thơ Võ Miên Trường cũng có những triết lý sâu sắc về hạnh phúc và khổ đau. Đôi lúc, nhân vật trữ tình trong thơ chị cất tiếng “riêng mang”:

Bên hiên đời ta nhặt tình hư ảo/ Kỷ niệm về xô lệch màng trăng nghiêng/ Chao chát nhớ từng đêm dài trăn trở/ Ta ngỡ ngàng đối diện nỗi niềm riêng

Giữa vành đai nỗi nhớ cứ gập ghềnh/ Từng giấc mộng chưa kịp dày đã sáng/ Thu võ vàng thương giọt sương phai úa/ Nhỏ xuống đời giọt nước mắt vương mang (Vương mang).

Trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ Võ Miên Trường, điều dễ nhận thấy là chị đề cập nhiều đến thân phận người phụ nữ. Bởi hơn ai hết, Võ Miên Trường thấu hiểu những nỗi đau mà họ phải gánh chịu. Bởi dù gì thì người đàn bà vẫn thiệt thòi nhiều hơn so với cánh đàn ông. Nghĩ về mình, chị chợt nhận thấy thấp thoáng bóng dáng âm thầm, khổ đau của mẹ và cũng là của mình. Nhà thơ càng ngậm ngùi, xót xa, khắc khoải hơn.

Oằn lưng mẹ gánh gian nan

Lệch vai trĩu nặng lầm than cuộc đời

Tuổi xuân mẹ cũng một thời

Vì con – không biết đánh rơi lúc nào

......

Một đời dẫu đến trăm năm

Chùng chân mỏi gối vẫn đằm nét tươi

Bôn ba trên cánh đồng người

Bàn chân tứa máu gai đời mẹ tôi

(Đẫm gánh đa đoan)

Sự trở đi trở lại trong thơ chị là hình ảnh của đêm, mưa, buổi chiều... Những hình ảnh ấy gợi lên cảm giác cô đơn, trống vắng, hoang hoải, miên man, chồng chất, trùng điệp những nỗi buồn.

- Đêm nghiêng/ Mình em lật xô mình/ Độc hành/ Tìm cô đơn cứu rỗi (Đêm nghiêng).

- Hình như nỗi nhớ dậy men/ Nghe đâu gió bấc ngược đêm tìm về (Một mai em).

- Người đàn bà ngược gió/ Ngược nỗi đau/ Ve vuốt trái tim mình/ Ngược màn đêm/ Tìm về thời trinh nữ/ Đôi mắt huyền/ Giờ đã đẫm sương sa (Ngược).

- Đêm vỗ về tiếng nguyệt cầm đơn lẻ/ Khóc thương vay một thuở trót yêu người/ Một mai ư... trong nhau là không thể/ Đợi đêm dài thao thức... nguyệt cầm rơi... (Lặng lẽ đêm).

- Phố mưa xô lệch nỗi niềm/ Nghiêng vai ta gánh cả triền em xanh (Mưa phố).

- Chiều em đau một giọt mưa/ Nghiêng đời rót xuống dạ thưa cùng người (Chiều).

- Mưa ơi - từ thuở trăng đầy/ Nửa vời vợi nhớ nửa lay lắt sầu (Khúc mưa...).

- Gói thương cho kín đợi chờ/ Dốc đời mưa vẫn mịt mờ phận mưa... (Phận mưa).

- Khúc quanh nào dắt chiều vơi/ Câu thơ nhuộm tím chiều rơi mịt mùng (Lục bát).

- Em cầm chiều đẫm chạm đêm/ Đốt miền trăng lạnh sưởi êm giấc buồn (Hờn đêm).

- Ta rối bời nghiêng theo chiều biển động/ Quay hướng nào cũng vấp phải mênh mông (Biển gọi).

- Chiều rơi sợi nắng vô tình/ Vương vào mắt tím.../ chùng chình bước chân... (Chiều tím).

- Nắng chiều giọt thắm giọt loang/ Hoang mang em nhặt đa đoan buộc mình... (Chiều nắng vỡ).

*

Không phải chị kêu gào than khóc mà đó là sự bộc bạch giãi bày nỗi lòng của chị với mong muốn tìm được sự đồng cảm và tri âm. Vì thế, âm hưởng chính trong thơ Võ Miên Trường là những giai điệu trầm, buồn, nhẹ nhàng, đằm thắm, cô đơn nhưng vẫn mang vẻ đẹp trong trẻo. Nó không chỉ là nỗi niềm riêng mà thấm đẫm tâm sự chung, không chỉ nói cho mình mà nói cho người; biểu đạt nỗi nghẹn ngào, thổn thức sâu xa trong trái tim của nhân vật trữ tình. Đủ một đời vay mượn nắng mưa/ Đo khôn dại cuộc đời/ Đếm đa đoan mòn mỏi...

Một sự thật là con đường đến với hạnh phúc càng thử thách, chông gai, trầy trật bao nhiêu thì giá trị của hạnh phúc có được càng lớn lao, bền vững và đáng quý bấy nhiêu. Cuộc đời chị là một minh chứng, sau những lo toan giữa chợ đời vì sự mưu sinh, giờ chị có cuộc sống ổn định, vui vầy bên chồng con và các cháu nội, ngoại. Dẫu chưa phải là cuộc sống sung túc như nhiều gia đình khác nhưng chị có thể tự hào và hãnh diện, tự thấy phục chính mình khi chị nhìn lại đoạn đường đời mà chị đã đi qua.

Càng về sau, nhà thơ Võ Miên Trường càng hướng vào khai thác, khám phá thế giới nội tâm của chính mình. Nhà thơ đã làm cuộc hành trình để nhìn lại mình sau chặng đường dài nếm đủ những đắng chát.

Sáu mươi năm/ Dòng sông đời lẩn khuất/ Ta lênh đênh giữa đôi bờ ảo thực/ Nợ mẹ cha hình hài nguyên vẹn/ Thắt lòng khi cha mẹ từng ngày mỏng vội/ Khúc quanh đời chưa biết giấu vào đâu

Sáu mươi năm/ Người con gái năm xưa gánh vết trầm quá khứ/ Trên đôi vai gầy tất tả nắng mưa/ Đã ngấm hết vô thường/ Đã đẫm mùi khôn dại/ Đã kiệt cùng trả vay.../ Vạt hoàng hôn trái mùa vẫn ngằn ngặt nắng... (Khúc tôi).

Nghẹn ngào, trống vắng, đau buồn lần lượt hiện diện là mắc xích xuyên suốt hành trình thơ Võ Miên Trường và trở thành “tạng” thơ riêng của chị. Cái hay là dù buồn, dù tổn thương, va vấp thơ chị vẫn hiền lành, nhẹ nhàng và “RIÊNG MANG” chứ không phải kiểu rên rỉ, oán trách, đổ lỗi. Vắt kiệt nỗi buồn/ Đến tận cùng khô khốc/ Xé mây trời dệt thảm lụa xanh mơ (Ngược).

Giữa những trăn trở, thao thức, tự đối diện với chính bản thân mình, tự vấn chính mình để soi thấu, củng cố lòng tin, sưởi ấm tình người. Nhặt hoàng hôn rớt đầy tay/ Ta - người nhặt những vơi đầy trong nhau (Nhặt những vơi đầy).

Cho đến thời điểm này, Võ Miên Trường đã in 4 tập thơ. Đó là thành quả mà nhà thơ đã dày công, miệt mài gieo hạt, vun trồng trên cánh đồng chữ nghĩa. Dù chưa phải là tiếng thơ độc đáo so với những nhà thơ nữ đương thời, nhưng những gì Võ Miên Trường có được, những gì chị đã đóng góp đã tạo nên sự đa sắc hương trong dàn đồng của ca của thơ nữ Việt Nam hôm nay. Đó là điều đáng được ghi nhận ở một cây bút có tâm, sống thành thật và say mê thơ như Võ Miên Trường. Ngồi hong những con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm - đắng đót/ Đắng giữ riêng mình/ Ngọt gửi vào thơ (Người đàn bà).

Nguồn: https://phuongnamplus.vn/

Một vài hình ảnh nhà thơ Võ Miên Trường cùng bạn văn.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm