TIN TỨC

Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-11 20:22:04
mail facebook google pos stwis
1279 lượt xem

LA MAI THI GIA

Phàm đã sinh ra làm phụ nữ thì đương nhiên phải là… xinh đẹp (nếu không đúng thì mắc mớ gì người ta lấy danh xưng phái đẹp mà gắn vô cho chị em?). Ngoài việc phải xinh đẹp như bao nhiêu người nữ ở tất cả các châu lục trên trái đất này thì người phụ nữ Việt Nam còn được gọi tên bằng hàng tỉ tính từ danh giá khác.

Nào là đảm đang, hy sinh, chịu thương chịu khó hay thậm chí là “anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang”. Những danh hiệu vàng ngọc ấy xưa nay đã khiến chị em chìm chìm đắm đắm trong nỗi hãnh diện tự hào rồi lại... chìm chìm đắm đắm mãi trong đức hy sinh vĩ đại của mẹ, của bà từ thời bà Trưng bà Triệu. Hễ cứ quyết định làm gì là phải nghĩ ngay đến thể diện nước non, mặt mũi chồng con trước, rồi sau mới tính tới mình:

“Một xin rửa sạch thù nhà

Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công lên này” (Lời thề Trưng Trắc)

Phụ nữ Việt Nam là con cháu của hai bà Trưng nên nghĩ như hai bà, làm như hai bà, trung nghĩa tiết hạnh như hai bà thì đâu có gì mà lạ, những phẩm hạnh ngời ngời kia được sách sử hay văn chương bác học ngợi ca biết bao nhiêu mà kể. Vậy nhưng khi tìm đến với kho tàng văn học dân gian Việt Nam mà cụ thể là kho ca dao bình dân - lời ăn tiếng nói, lời ca tiếng hát của người dân lao động Việt Nam khi xưa lại thấy những tiếng nói trái ngược vang lên không dứt.

Nếu chịu khó đi tìm trong ca dao cái chủ đề gì đó về phụ nữ mà không liên quan đến sự “anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang", không "công dung ngôn hạnh", đi tìm những câu ca viết về cái sự vụng về, hư hỏng, lẳng lơ, mất nết… của chị em phụ nữ thì sẽ thấy có mà đầy, đầy ú nụ.

Này nhé:

Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn

Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ (Ca dao)

 

Lẳng lơ chết cũng thành ma

Chính chuyên chết cũng khiêng ra ngoài đồng (Ca dao)

Lẽ nào đây chỉ là những câu nói khơi khơi cho sướng miệng của những người mẹ, người chị bị gò bó trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến lâu quá nên khát khao được tháo củi sổ lồng? được… hư một lần cho biết mặt nước non? Và cái khao khát ấy, cái ức chế ấy dồn nén, dồn nén mãi rồi… bật lên thành câu hát mỉa mai châm biếm cho thân phận đàn bà của mình như trên kia. Hay những câu ca dao ấy chính là lời khẳng định chắc nịch của người phụ nữ nông dân quê mùa xưa khi tự nhận chân về giá trị đàn bà của mình. Ừ, lẳng lơ thì đã sao, tiết hạnh khả phong thì đã sao, đằng nào mà chả phải đưa ra ngoài đồng vùi nông vùi sâu một đống, tới lúc đó còn lại gì ngoài việc “trơ cái hồng nhan với nước non”? (Canh khuya – Hồ Xuân Hương).

Mà hai câu ca dao về cái sự lẳng lơ trên kia thì đã ăn nhằm gì so với những lời tuyên bố thẳng thừng bất chấp gạch đá của các bà các chị dưới đây. Đã có sức chơi thì có sức chịu, đã ăn chơi thì đừng sợ mưa rơi, đã dám ăn vụng thì cũng đừng thèm chùi mép. Khi quan điểm sống và lối sống mà họ chọn theo đuổi để lại hậu quả (hay kết quả) là bụng chửa vượt mặt, những cô nàng dám lẳng lơ ấy còn tự tin, tự hào, tự trào, tự sướng về thành quả của mình:

Lẳng lơ mới có con bồng

Chính chuyên như chị, nằm không cả đời. (Ca dao)

Mà quả thật là vậy, không phải trong văn chương ngàn xưa đã kể chuyện biết bao cô nàng hư hỏng nhờ lẳng lơ mà xỏ mũi được trai lành đó sao, khiến cho những cô nàng con gái nhà lành khác vì thuộc lòng lời mẹ dạy “trâu đi tìm cọc chứ nào có cọc đi tìm trâu” nên rốt cuộc để cái cọc “hư hỏng” khác nó túm mất con trâu của mình rồi tiếc nuối. Nếu xét mục đích hành vi lẳng lơ của người đàn bà trong câu ca xưa là để "có con bồng" thì đúng là lời quá lời rồi còn gì, không chừng ả còn vỗ bụng xưng xưng một cách đầy tự hào với những người đàn bà "phượng chạ loan chung"  (Truyện Kiều – Nguyễn Du) khác về cái điều mà họ chẳng bao giờ làm được như mình:

“Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa, thế gian sự thường. (Ca dao)

Chưa kể, cái sự thường này cũng chỉ là cái sự thường ngày xưa thôi, chứ ngày nay nhìn hoàn cảnh các đôi vợ chồng lũ lượt đưa nhau ra vào các bệnh viện phụ sản có chuyên khoa hiếm muộn, đủ hiểu "có chồng mà chửa" cũng chẳng là sự thường tí nào.

Hồi nào đến giờ, cứ nhắc đến người phụ nữ Việt Nam truyền thống nghĩa là đều nhắc đến những tấm gương đạo đức sáng ngời với hàng vạn hàng nghìn những đức tính tốt đẹp, phẩm hạnh tốt vời cho con cháu (tất nhiên là cho con gái, cháu gái) đời sau noi theo. Đó là những tấm gương công dung ngôn hạnh, tiết hạnh khả phong, tam tòng tứ đức, “có chồng gánh cả giang san nhà chồng” (Ca dao). Theo gương ấy, các cô gái mới mon men dậy thì đã được mẹ dặn chữ trinh đáng giá nghìn vàng cho nên phải biết:

 “Gìn vàng giữ ngọc cho hay

 Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) 

Còn nếu như không biết giữ gìn cái vốn tự có ấy mà để thằng nào xài mất thì sau này có ma nó lấy cho, có lừa đảo được ma nó lấy thì khi phát hiện ra nó cũng đuổi về nhà cha mẹ đẻ:

"Còn duyên anh cưới ba heo

Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi" (Ca dao)

Đuổi đi còn đỡ, lót lá dắt tay trả về lại cho cha mẹ đẻ với con heo quay bị cắt cụt tai (tượng trưng cho trinh tiết không còn trước khi về nhà chồng của cô dâu mới) còn đỡ, hổng chừng còn bị làng nước gọt đầu bôi vôi, thả bè trôi sông làm mồi cho thủy quái. Vì chuyện một cô gái mất trinh hay chửa hoang khi xưa cũng có thể khiến cho cả làng mang nhục. Dọa dẫm kiểu đó, cô gái mới lớn nào mà không sợ. Mà đâu chỉ dọa suông, hậu quả nhãn tiền trước nay của những cô gái “trắc nết lăng loàn” có mà được kể lại đầy trong văn chương nghệ thuật, mà văn chương nghệ thuật từ đâu mà ra nếu không phải từ thực tế cuộc đời?

Vậy đó, vậy mà vẫn có một mảnh đất màu mỡ cho một mảng văn chương bình dân thay mặt phụ nữ bình dân phát ngôn đầy “bất chấp đạo lý cha ông” như thế. Ai mà dám tin rằng từ hàng bao thế kỷ trước, thời của văn hóa Nho học, lại có những cô gái dám tuyên bố những lời “trái đạo” thế này:

“Chơi cho thủng trống long chiêng

Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng

Chơi cho thủng trống long bồng

Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm” (Ca dao)

Và nếu cũng nói được rồi làm được như các cô gái con nhà lao động bình dân ít ăn ít học (mà có khi còn chẳng được ăn học đúng nghĩa ngày nào), thì nàng tiểu thư gia can lành lặn, cánh vàng lá ngọc, kín cổng cao tường như Thúy Kiều đã chẳng thốt lời tiếc nuối:

“Biết thân đến chốn lạc loài

Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung" (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Trên đường về với Mã Giám Sinh, Kiều đã thốt nên lời cay đắng ấy, nói nôm na cho dễ hiểu là: “Nếu biết phải lấy tay chồng mà mình không yêu, lại đầu hói bụng bự vừa già vừa xấu như lão họ Mã thì trước đây mình… ngủ với Kim Trọng cho rồi”. Cái đêm hai người chén thạc chén thù trong vườn Thúy, gia đình Kiều thì đi vắng cả, hoa thơm, trăng sáng, rượu ngon, trai xinh gái đẹp ngồi bên nhau trong một khung cảnh trữ tình như thế, lại được hơi rượu đưa cay cho nên Kim Trọng:

“Sóng tình dường đã xiêu xiêu

 Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

 Nếu lúc ấy thay vì làm mặt đức hạnh với tình nhân và nói “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” (Truyện Kiều) thì Kiều cứ mặc cho Kim Trọng “Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan” (Ca dao) thì đâu đã có lời tiếc nuối trong cái ngày lên xe bông về nơi xa xôi mênh mông đâu chứ?

Trên là mới nói chuyện của các cô gái chưa chồng, hăm hở, hào hứng, mạnh miệng… cãi lại cha ông về việc giữ gìn đức hạnh, còn với các bà các chị ván đã đóng thuyền, gạo nấu thành cơm, hoa đã có chủ và là đóa trà mi mà “Con ong đã tỏ đường đi lối về” (Truyện Kiều) rồi thì sao nhỉ? Có phải thẳng thớm nghiêm trang, giữ gìn phẩm hạnh cho một người đàn ông tới cuối đời trong một tư thế tự nguyện, yêu thương, mãn nguyện, đủ đầy hạnh phúc hay không?

“Chưa chồng liếc dọc liếc ngang

Chồng rồi cứ thẳng một đàng mà đi” (Ca dao)

Hay cũng đầy quyết liệt, bất chấp và quá sức là…. hư đốn như lời tuyên bố dưới đây:

“Chồng rồi còn dễ chơi ngang

Đẻ ra con thiếp con chàng con ai?” (Ca dao)

Xem cái cách mà cha anh xưa, mẹ chị xưa đùa cợt nhau, phê phán nhau, châm biếm nhau,… vạch mặt cái thói đong đưa lẳng lơ của nhau mà ta không khỏi tủm tỉm cười vì sự tinh vi tinh tướng, hài hước và dí dỏm của họ:

“Hai tay bưng hai quả hồng

Quả chát phần chồng quả ngọt phần trai

Đêm nằm vuốt bụng thở dài

Nhớ chồng thì ít nhớ trai thì nhiều” (Ca dao)

Câu ca dao như lời tuyên bố (hay dằn mặt) anh chồng chính thức rằng đừng cứ tưởng gạo nấu thành cơm, nghé đã thành trâu, ván đã đóng thuyền mà nghĩ ăn chắc rồi thì lơ là, bỏ mặc không quan tâm vợ nhà. Chủ quan sẽ có ngày trái chát cũng chẳng có mà ăn đâu đấy.

Tạm kết

Khi tập hợp những câu ca dao về chủ đề này, tôi ngạc nhiên hết sức về sự phong phú dồi dào của số lượng câu ca và đôi lúc khá sốc với tư tưởng cởi mở trong quan niệm về quyền tự do trong yêu đương và hôn nhân của người nữ khi xưa. Một mặt tôi thấy thú vị khi bắt gặp những câu ca này như để giúp mình hiểu thêm quan niệm về tự do của người đàn bà trong xã hội cũ nhưng một mặt lại thấy ngậm ngùi, bâng khuâng tự hỏi: phải chăng những câu dao này chỉ là kết quả của những bức bối và dồn nén, bất hạnh và đau khổ? Thì chẳng phải rất nhiều thể loại trong văn học dân gian được sáng tác ra cũng chỉ để diễn dạt lại cái ước mơ của những con người lao động chịu rất nhiều tầng áp bức trong xã hội đó hay sao?

Mà nếu việc mở miệng nói suông cũng có thể khiến cho người ta sướng miệng, cho nhẹ nhõm, cho bung thỏa hết những dồn nén thầm kín trong đời sống tình yêu, tình dục của mình mà không bị làng bắt vạ, không bị quan bắt tội, không bị nhà nước bỏ tù thì mắc mớ chi mà không nói. Thì cứ nói và cứ hát mãi thôi như những con người chân lấm tay bùn mà lòng trong trẻo trẻ thơ hoài muôn năm ấy:

“Chỉ đâu mà buộc ngang trời

Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ” (Ca dao)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm