TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu” của nhà văn Hoàng Phương Nhâm là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu” của nhà văn Hoàng Phương Nhâm là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-09 14:30:13
mail facebook google pos stwis
1184 lượt xem

LỜI TỰA

NHỊ NGUYÊN

Cuốn tiểu thuyết về tình yêu thời hiện tại với tất cả những éo le phức tạp, những hỉ nộ ái ố thường gặp nhưng nguồn gốc thành phần xuất thân của những nhân vật hiện hữu trong cuộc tình lại khiến người đọc quan tâm đến những điều ẩn sâu trong đó. Đó là những vấn đề của hậu chiến, là khát vọng của những linh hồn lính chiến của cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh, là sự hòa hợp dân tộc. Những di chứng mà bất kì một cuộc chiến tranh nào cũng để lại sau khi nó kết thúc bằng những phân định thắng thua.

Hiếu Tuệ, cô sinh viên Y khoa trong một lần từ trường trở về nhà để kịp làm lễ sinh nhật mẹ- Bà Quyên Ái-  đã bất ngờ gặp một tai nạn. Cô thấy mình bị rơi xuống một vùng đất lạ: “Hiểu Tuệ ngơ ngác đứng giữa hoang hoải nắng. Cả vùng đất rộng hút tầm mắt chỉ một màu vàng cháy rụi của cây cỏ, mặt đất bị cày xới nham nhở, những hố lớn hố nhỏ đè lên nhau. Không gian khét lẹt mùi hóa chất, mùi thịt nướng quá lửa, mùi thối rữa như mùi động vật đang kỳ phân hủy. Hiểu Tuệ hoảng sợ, cô không hiểu làm sao lại đến nơi đây. Cô nhón chân hối hả mong chạy khỏi vùng đất khủng khiếp này để tìm đường về nhà. Những mảnh gang sắc nhọn ẩn khuất trên mặt đất cứa vào bàn chân trần của cô. Nơi cô chạy qua đều để lại một dấu chân đỏ máu. Gần như kiệt sức, Hiểu Tuệ hét gọi…” Cô không biết đây là vùng đất chết- Nhưng như một run rủi của số phận, chính trong lúc vô cùng hoảng sợ này cô bất ngờ được Nhậm Thành cứu giúp. “Đứng trước cô là một người trai trẻ chững chạc trong bộ quân phục rằn ri. Dáng người anh cao to nổi bật trong ráng chiều chạng vạng. Hiểu Tuệ thấy bộ quân phục anh mặc giống như trong bức hình của ông ngoại chụp khi ông là lính Việt Nam cộng hòa vừa ở mặt trận về trong bức ảnh cưới với bà ngoại. Mà thời đó đã lâu lắm rồi, sao giờ người này lại vẫn mặc bộ đồ y chang vậy?!” Hiểu Tuệ lại càng không biết Nhậm Thành vốn là một sỹ quan Cộng hoà, bạn thân của Vĩnh Lộc ông nội cô. Ông nội cô là con của một chủ trại ngựa đua. Cả hai đều đã tử trận trong cuộc chiến trước đây và Nhậm Thành đang trên đường đi tìm Vĩnh Lộc (Người đang cùng bị mắc kẹt trong một vách đá bên bờ vực ở vùng núi sâu hoang vắng cùng một người lính Bắc Việt: Giang Tử Quang). Nhậm Thành không để ý đến thái độ đó của Hiểu Tuệ. Anh nắm tay cô chạy nhanh ra khỏi vùng đất chết đó đưa cô đến một nơi có phong cảnh kì thú đẹp như cảnh nơi tiên giới: Vườn Đà La. Và từ đây Hiểu Tuệ tỉnh lại thấy mình trong bệnh viện có ánh mắt trìu mến của An Đông- người bác sỹ trẻ. Có thể đó cũng lại là một sắp đặt đầy thử thách của số phận. An Đông là cháu nội của ông Giang Tử Quang và bà Kim Thư- Hai cán bộ cách mạng, hai bác sỹ giỏi của ngành Y tế miền Bắc. Giang Tử Quang ra mặt trận và hy sinh. Bà Kim Thư sau khi thống nhất đất nước chuyển công tác vào Sài Gòn với ý đồ sẽ được gần nơi chồng hi sinh, có thể thuận lợi cho việc đi tìm kiếm hài cốt của chồng và em chồng. Bà có thời gian tham mưu cho lãnh đạo thành phố. Bà là một người tài giỏi, mẫn cán nhưng cũng không ngừng nuôi trong lòng mối hận thù với “Phía bên kia”, những người đã sát hại chồng bà. Bi kịch bắt đầu. Khi biết An Đông yêu Hiếu Tuệ- Một cô gái có nguồn gốc thuộc phe đối kháng trước, bà đã tìm mọi cách để ngăn cản… Cuộc tình của Hiểu Tuệ và An Đông bị đặt trước muôn vàn thử thách, những thử thách của đời thường, cạm bẫy cùng những quan niệm, những định kiến và của những quá khứ buồn trước đây. Nhưng cuối cùng, như một sự an bài cần thiết cho mọi cuộc tình, cho mọi đổ vỡ, bằng sự chân thành, bằng tình yêu đích thực… cuối cùng sau bao giông bão, thử thách, con thuyền tình yêu của Hiếu Tuệ và An Đông đã cập bến Hạnh Phúc. Một cái kết có hậu.

 Và để thực hiện cuốn sách cho phù hợp nội dung, nhà văn đã dùng nhiều thủ pháp, đa phong cách và đa thể loại. Từ hiện thực tới siêu thực, tới hiện thực huyền ảo. Từ cổ điển kết hợp liêu trai. Từ chi tiết đến ước lệ. Tất cả được sử dụng đan xuyên một cách khéo léo và tinh tế. Những nhân vật của đời thực như Bà Kim Thư, bà Quyên Ái. Âu Dương Văn: chủ tịch tập đoàn AUDUONG Đài Loan. Âu Dương Vệ Trân: Con gái Âu Dương Văn, Phương Minh: Bạn Hiểu Tuệ. -Khải Ninh: Chồng Phương Minh…. Đươc đặt cạnh những người đã mất như Giang Tử Quang, Nhậm Thành, Vĩnh Lộc, Uyển Vy… Khung cảnh đời thực như Thành phố, bệnh viện cho đến vườn tược, những khuôn viên rực rỡ sắc màu cùng dòng sông đêm huyền ảo mà ở đó những con người thật đang sống cuộc đời thật với yêu thương tràn đầy cùng bao toan tính đời thường được đặt bên ngôi làng Chó Lạc, ấp Giáng Hương, Làng Chiến Binh của người chết hay bãi đất trống hoang vu trong ánh chiều ma quái. Những ngôi làng của những linh hồn người lính của cả hai phía trước đây đối địch nhau thì bây giờ vì lí do nào đó di cốt của họ họ chưa được đưa về, vẫn gửi thân nơi rừng hoang núi lạnh. Và họ tụ lại với nhau thành làng, tự an ủi nhau, truyền cho nhau niềm vui. Ở đây thù hận không còn tồn tại. Cũng có lúc những linh hồn lính trẻ nhớ lại trận đánh mà họ đã “Nhắm vào nhau” bằng một chút ưu tư mẫn cảm nhưng rồi lại ôm vai nhau, kể cho nhau nghe về kỉ niệm tươi đẹp ngày chưa nhập ngũ, những yêu thương gửi lại quê nhà…Tất cả những điều đó đã tạo nên một không gian truyện đầy hấp dẫn với cái nhìn vừa thiết thực, vừa nhân bản. Hận thù, chia rẽ, những vết thương hay sự đổ vỡ của con người gây ra cho nhau cuối cùng rồi cũng phủ bụi thời gian chỉ TÌNH YÊU, TÌNH YÊU đích thực và chân thành cùng với lòng vị tha, thông cảm và chia sẻ còn tồn tại. Và đó sẽ là phương thuốc cứu cánh duy nhất có thể hàn gắn và đem lại cho con người sự an nhiên, sự tĩnh tâm để những điều tốt đẹp nảy sinh.

 Dù thời tiết thế nào, khung cảnh nào thì cái đẹp vĩnh cửu như HOA CHO TÌNH YÊU vẫn nở.

Hà Nội tháng 5 Năm 2024


Nhà văn Hoàng Phương Nhâm

 

Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu”  là bản Thánh ca về nỗi đau đất nước thời hậu chiến

VĂN CHINH

Cuộc tìm kiếm nào cũng đáng quý, bởi vì khi còn tìm là còn niềm tin và hy vọng - hai động lực làm nên sức hấp dẫn của kiếp nhân sinh. Mùa hè năm 2024 cư dân mạng xôn xao về sư Thích Minh Tuệ tu 13 hạnh đầu đà, là xôn xao về một cuộc tìm kiếm vĩ đại vậy. Cho nên tiểu thuyết xưa nay nhiều cuốn viết về những chuyến đi tìm. Gần gũi và ngắn hạn như An Đông tìm hoa hồng đẹp tặng người yêu Hiểu Tuệ, như Vĩnh Lộc tìm kiếm hoa đẹp tặng người chiến hữu tử sĩ Nhậm Thành- oái oăm thay, mẹ Hiểu Tuệ - bà Quyên Ái, lại là con gái bà chủ quán hoa Tư Hồng, những năm 1970 là vợ của Vĩnh Lộc. Vậy là trước hàng hoa ấy, đã có ba thế hệ yêu nhau, họ đều giống nhau ở chỗ nhờ chủ quán chọn giúp mình một bông hồng đẹp để tặng người yêu. Một minh triết hàm chứa ẩn dụ về sự NHƯ NHAU giữa các thế hệ người trước tình yêu và cái đẹp dù họ khác nhau niềm tin, vùng miền, chiến tuyến.

Nhưng tìm kiếm hài cốt, linh hồn của người thân và đồng đội chưa rõ danh tính mới thật đáng quý, nhất là ở những người từng đối diện nhau qua họng súng. “Đi tìm đồng đội” là một chuyên mục của đài phát thanh, truyền hình Việt Nam suốt mấy chục năm qua - đồng đội là danh từ chung, nhưng với số đông, nó có nghĩa là quân Giải phóng bao gồm bộ đội miền Bắc theo dọc Trường Sơn mà vào. Chỉ đến tiểu thuyết HOA CHO TÌNH YÊU này, qua nhân vật Nhậm Thành và Vĩnh Lộc, qua các “làng tử sĩ” - nơi quần cư của những linh hồn mà hình hài còn bị mắc kẹt đâu đó trên sa trường, nó có thêm hàm nghĩa mới. Những trang viết về cuộc gặp gỡ giữa hai động đội cũ Nhậm Thành và Vĩnh Lộc lại cũng là cuộc gặp mới giữa Nhậm Thành với Giang Tử Quang là bác sĩ bộ đội giải phóng  - vì Vĩnh Lộc và Giang Tử Quang bị mắc kẹt ở vách đá hoang vu sau nửa thế kỷ trong oải mục họ là hàng xóm của nhau, họ đã thành bạn bè. Đây là những trang văn xuôi mới mẻ, thấm thía tình người lại cũng đầy ẩn dụ.

Người H’Mông có câu, khi đã lấy chồng, sống là người nhà chồng, chết làm ma nhà chồng. Ở “HOA CHO TÌNH YÊU”, câu nói sắt son chung thủy này đã thành nghĩa: “là người Việt, sống trên đất Việt, chết làm ma đất Việt”. Thường nghe câu, trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Đi tiếp định đề ấy, ta nhận ra: Có lẽ, khi qua sông Nại Hà, con người rũ bỏ mọi thành kiến, tội nợ, oan nghiệt để nhập trại di cư trung chuyển trước khi đầu thai đến kiếp khác, ở một không gian khác. Con người theo thời gian nối gót nhau đi đến cuối cuộc đời, khi bị cái chết khựng lại thì theo lực quán tính, linh hồn bị văng về phía trước cùng căn nghiệp vẫn còn dang dở nên tiếp tục hóa giải chăng? 

Nhưng rũ bỏ là một quá trình. Không kỳ hạn, như sông Nại Hà dài rộng ra sao không ai đo được. Như với bà Kim Thư, khi đã già, đã sống rất lâu trong phú quý giàu sang nhưng vẫn không thể quên mối thù những kẻ đã bắn chết chồng bà. Chúng cắt ngang tuổi thanh xuân chất chứa khao khát tình yêu thương, ân ái, để chỉ còn đời mẹ góa con côi dài thăm thẳm. Càng thương nhớ chồng, càng sống lâu trong niềm sắt son chung thủy thì mối hận thù càng như nêm khắc trong lòng của bà. Bà không thể chấp nhận cháu nội bà, bác sĩ An Đông yêu cháu nội kẻ thù, bác sĩ Hiểu Tuệ. Bà không biết có một cõi khác, nơi linh hồn của những cựu thù Vĩnh Lộc, bác sĩ Giang Tử Quang - chồng bà đã dần trở nên thân thiện sau khi cùng tắm nước Nại Hà, lại sống bên nhau suốt nửa thế kỷ ở cõi tuyệt không tiếng súng. 

Tuy hận thù oan trái nhưng cũng kỳ diệu thay, cuộc đời! Trong khuôn viên biệt thự của bà Kim Thư là hoa viên gồm nhiều cây ăn trái cùng kỳ hoa dị thảo. Hoa trong tiểu thuyết này chẳng những làm dịu lại lòng thù hận đối với người sống, hoa còn làm lồng ấp nuôi thần thái Hiểu Tuệ trong thời gian cô bị ngất. Đó là những trang văn đẹp: “Cô thấy mình bị bất ngờ rơi xuống một vùng đất lạ- Hiểu Tuệ ngơ ngác đứng giữa hoang hoải nắng. Cả vùng đất rộng hút tầm mắt chỉ một màu vàng cháy rụi của cây cỏ, mặt đất bị cày xới nham nhở, những hố lớn hố nhỏ đè lên nhau. Không gian khét lẹt mùi hóa chất, mùi thịt nướng quá lửa, mùi thối rữa như mùi động vật đang kỳ phân hủy. Hiểu Tuệ hoảng sợ, cô không hiểu làm sao [... ] khi thấy Nhậm Thành, một người lính Việt Nam cộng hòa như vừa ở mặt trận về. [... ] Anh nắm tay cô chạy nhanh ra khỏi vùng đất chết đó đưa cô đến  một nơi có phong cảnh kì thú đẹp như cảnh nơi tiên giới: Vườn Đà La.” Nhậm Thành bằng tuổi ông nội cô, nhưng ông chết khi còn được gọi là “anh” - nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet, viết về “Em bé Hirosima:” “Bây giờ em vẫn bẩy tuổi thơ/ Những em chết không còn lớn nữa.”  Vâng, hoa trong khuôn viên biệt thự Hoa Tường Vi làm dịu hận thù của bà Kim Thư, hoa ở Vườn Đà La nơi tiếp dẫn những linh hồn trước khi siêu thoát đã thức tỉnh thần thái coi như từ cõi chết của Hiểu Tuệ. Ở đây, hoa vừa là thực thể đời sống, vừa là ngôn ngữ nghệ thuật khiến cả người sống lẫn linh hồn người chết đều nghe hiểu mà không cần phiên dịch. Cái đẹp là ngôn ngữ chung của nhiều loại chúng sinh, nhiều cảnh giới.

Hoa ở hoa viên trong biệt thự Hoa Tường Vi cùng với các cảnh giới Nhậm Thành tìm ra Vĩnh Lộc và Giang Tử Quang, “cuộc sống” đầy phúc âm tại các “làng tử sĩ” rồi ra đã hóa giải hận thù ở bà Kim Thư, sẽ gắn bó hạnh phúc giữa hai cháu nội cựu thù như một tất yếu đời sống. Và đầy sức thuyết phục.

Tôi vừa nói đến phúc âm. Nó là kết tinh giữa ký ức tôi hòa phối với âm hưởng tiểu thuyết này. Có ký ức ấy là vì tôi từng đọc “Người hát thánh ca” - một trong những truyện ngắn khoảng những năm 1980 đã làm nên tên tuổi Hoàng Phương Nhâm. Khi đặt tên truyện, bà chừng như muốn nhận mình chỉ là người hát đồng ca trong nhà thờ và chỉ tụng ca thánh Chúa. Thế rồi, quả nhiên, chúng ta có nhà văn Hoàng Phương Nhâm khiêm nhường. Vậy mà không ngờ, đến tuổi bẩy mươi ngoài, nữ sĩ bỗng vút lên lĩnh xướng bằng giọng đơn ca độc đáo về hậu chiến và hòa hợp dân tộc. Và, khi đã có tư tưởng nghệ thuật hay, văn chương cũng trở nên khoáng hoạt về thi pháp, có hiện thực phối trộn tự nhiên với hiện thực tâm linh đồng hiện, có chương như là thơ văn xuôi không vần, lại có chỗ như bi kịch cổ điển. Đa thanh sắc nhưng nhuần nhuyễn, ấy là thế năng của bút lực dồi dào vào độ chín.  Tiểu thuyết HOA CHO TÌNH YÊU đặt ra những vấn đề lớn lao, nóng bỏng mà êm ái như nghe hát thánh ca mặc dù vẫn có khúc căm hận, có khúc xót xa, có khúc đau đớn muốn gào thét, có khúc lại bùi ngùi do nỗi đau âm u kìm nén quá lâu trong tâm hồn chuyển hóa mà thành. Tiểu thuyết như là bản thánh ca về nỗi đau đất nước, được hát lên trong quá trình hóa giải, như một phương thuốc chữa lành, nó tích cực hơn thời gian. 

Nó xứng đáng để tôi trân trọng đề tựa.

Hà Nội ngày rằm quý Hạ Giáp Thìn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm