TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt

Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-09-05 15:03:42
mail facebook google pos stwis
667 lượt xem

Hỏa Diệu Thúy

 

Bà Trưng quê ở Châu Phong,

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền,

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Hầu như không đứa trẻ Việt Nam nào từ cấp tiểu học không nhớ đoạn diễn ca về Hai Bà Trưng, hai nữ anh hùng của lịch sử Việt Nam. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43 sau công nguyên), cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại ách đô hộ một nghìn năm Bắc thuộc, giành lại nền độc lập tự chủ: Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta, được lãnh đạo bởi những người phụ nữ còn rất trẻ, mới qua tuổi đôi tám. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, những biên chép về cuộc khởi nghĩa hào hùng ấy cũng như triều đại Trưng Vương không được đầy đủ, thậm chí chỉ được ghi lại mấy dòng ngắn ngủi trong sử cũ. Điều này là nỗi quan hoài của những người quan tâm đến lịch sử dân tộc, cũng là của các cây bút đam mê tiểu thuyết lịch sử.   

Bộ tiểu thuyết Trưng Nữ Vương (hai tập) của tác giả Phùng Văn Khai ra mắt như sản phẩm văn hóa giàu ý nghĩa tới độc giả, thỏa mãn mong muốn tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử tuy ngắn ngủi nhưng thật hào hùng, được dẫn dắt bởi những nữ anh hùng. Cầm trên tay bộ tiểu thuyết lịch sử Trưng Nữ Vương không khỏi thán phục nội lực và niềm say mê cổ sử của nhà văn quân đội. Dường như cây bút họ Phùng này đã tìm trúng mạch sáng tạo cho riêng mình, nên chỉ trong vòng hơn mười năm, 7 bộ tiểu thuyết lịch sử liên tiếp ra mắt, lại tập trung ở phần “Ngoại kỷ”, tức phần cổ xưa nhất, ít tư liệu nhất trong cả chính sử lẫn huyền sử.

Bộ tiểu thuyết Trưng Nữ Vương gồm hai tập: tập một tương ứng với giai đoạn thanh nữ Trưng Trắc, trưởng nữ của quan huyện lệnh Trưng Định (Lạc tướng đất Mê Linh) xinh đẹp, giỏi võ nghệ nên duyên cùng Thi Sách, trưởng nam của huyện lệnh Dương Thái Bình (Lạc tướng đất Chu Diên), một trang tuấn kiệt. Hóa ra, cả hai đều dòng dõi Lạc hầu, là hậu duệ con cháu vua Hùng. Đất Mê Linh và đất Chu Diên, dưới sự dẫn dắt của hai Lạc hầu tài giỏi, khí phách, đã trở thành hai vùng đất hùng mạnh khiến các Thái thú được cắt cử trị nhậm từ phương Bắc xuống rất nể vì. Song, khi thái thú Tô Định, kẻ được trị nhậm thay thế là kẻ vốn tham lam, tàn ác, để thị uy, hắn trấn áp những huyện lệnh địa phương có uy tín, hùng mạnh. Huyện lệnh Mê Linh, huyện lệnh Chu Diên, huyện lệnh Bắc Đái đã vào tầm ngắm của hắn. Tô Định cùng với bộ hạ bày mưu giết những huyện lệnh uy tín này. Bạo ngược hơn nữa, hắn tiếp tục dùng thủ đoạn hèn hạ giết Thi Sách, trưởng nam huyện lệnh Chu Diên khi chàng thanh niên đang chịu tang cha. Tô Định không thể ngờ, tội ác vô nhân của hắn không những không làm cho dân Giao Chỉ khiếp sợ, mà ngược lại, đã thổi bùng ngọn lửa căm phẫn, bất bình của người dân nơi xứ sở thích bình yên, hòa mục này. Trưng Trắc, tuổi  mới qua đôi tám, trên đầu vừa mang tang cha vừa mang tang chồng đã phất cờ tụ nghĩa với lời hịch khí phách: Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng/ Ba kẻo oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này (Thiên Nam ngữ lục). Tập một của bộ tiểu thuyết dừng ở sự kiện: những thủ hạ sừng sỏ nhất của Tô Định được sai đi trấn áp mầm mống của cuộc khởi nghĩa như: Tào Quyên, Sầm Lân, Sầm Bá, Ngụy Húc… đều nhận thảm bại, kẻ bị chém đầu, kẻ bị chết trong đám loạn quân, kẻ đầu hàng nhục nhã. Sau khi hạ thành Cổ Loa, đoàn quân hừng hực khí thế kéo tới kinh thành Luy Lâu. Số phận của thái thú Tô Định và tư mã kinh thành Mã Tắc như cá nằm trên thớt.

Thành công của tập một hé lộ sức cuốn hút của lối viết sôi nổi, giàu cảm xúc. Người đọc thích thú được trải nghiệm với không gian Giao Chỉ xưa, vùng đất của những thảm rừng nhiệt đới rậm rạp nhiều muông thú, lắm ao hồ, sông ngòi, lại giáp biển, tạo nên những tập tục văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng. Người dân vừa giỏi săn bắn, chinh phục, thuần hóa muông thú, vừa giỏi sông nước, chinh phục thủy quái.

Ở tập này, độc giả còn được “diện kiến” những chân dung sống động: thanh nữ Trưng Trắc thông minh, xinh đẹp lại giỏi võ nghệ; chàng trai Thi Sách tuấn tú từ ngoại hình đến tính cách, tài năng. Họ là con của những Lạc hầu, Lạc tướng hùng mạnh. Được nuôi dưỡng, rèn luyện trong môi trường chọn lọc để trở thành những người kế thừa xứng đáng cai quản bộ tộc của mình. Điều này sẽ trả lời một cách thuyết phục cho câu hỏi: Vì sao một cô gái đang tuổi thiếu nữ lại trở thành lãnh tụ khởi nghĩa, biết tập hợp sức mạnh quy tụ lòng dân, dẫn dắt anh tài bốn phương, biết tổ chức trận đánh, biết dùng mưu nhử giặc, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều.

Tập hai mở đầu bằng trận đại thắng kinh thành Luy Lâu. Sau thất bại của Tào Quyên và các tướng sừng sỏ và khí thế vũ bão của quân Hai Bà, thái thú Tô Định và tướng Mã Tắc rút vào kinh thành Luy Lâu chờ cứu viện. Tuy nhiên, Trưng Trắc không đánh thành ngay mà dùng kế vây thành để bớt đầu rơi máu chảy. Kế hãm thành này khiến quân Hán lo lắng, kiệt quệ. Tên thái thú ngông cuồng Tô Định chịu không nổi phải cắt hết râu tóc, cải trang thành thương khách nửa đêm lẻn xuống thuyền chạy trốn. Đại tướng Mã Tắc hay tin hộc lên ngã lăn ra bất tỉnh, quân Hán buông vũ khí đầu hàng. Sau 1000 năm Bắc thuộc, cõi Lĩnh Nam trở thành nhà nước độc lập, tự chủ với cương vực rộng lớn từ Lĩnh Nội đến Lĩnh Ngoại. Lĩnh Nội có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Lĩnh Ngoại là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, tới tận hồ Động Đình. Triều đình Lĩnh Nam lấy Mê Linh, đất cũ của các vua Hùng dựng nghiệp làm kinh đô.

Ở tập 2, chân dung nhị vương Trưng Nhị xuất hiện cũng rất tài ba thao lược. Trưng Nhị như cánh tay phải, luôn sát cánh giúp chị tổ chức, thị sát, phủ dụ bách tính thị tộc, vỗ về các vùng thượng du hạ bạn, đặc biệt là các vùng Lĩnh Ngoại. Trưng Nhị đã chủ động cùng nữ tướng Lê Chân bài binh bố trận đánh úp thủy trại Hợp Phố. Hàng trăm chiến thuyền của tướng Đoàn Chí đang được chuẩn bị tiến đánh phương Nam bị các nữ tướng trẻ tuổi: Trưng Nhị, Lê Chân, Phật Nguyệt đốt phá tan tác.  

Từ gợi ý của chính sử, Phùng Văn Khai đã dựng lại những trận thủy chiến thư hùng như trận Hợp Phố, trận Hồ Lãng Bạc, trận cửa biển Đằng Giang …cho thấy cư dân phương Nam từ xa xưa đã giỏi sông nước, quen đánh thủy, lý giải các đời sau quân phương Bắc tiếp tục 3 lần đại bại trong các trận thủy chiến ở cửa sông Bạch Đằng.

Ở tập 2, tác giả tiếp tục tái hiện hình ảnh nữ quân vương tài năng, mưu lược và nhân hậu, đặt cuộc sống của muôn dân trăm họ lên trên thù nhà, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm nguyên tắc ứng xử với ngoại bang. Tiếc thay, thời gian dành cho công cuộc chấn hưng bờ cõi của Hai Bà quá ngắn ngủi. Không nuốt nổi mối nhục đại bại trước những thanh nữ phương Nam anh hùng, Hán Quang Vũ triệu cha con tướng Mã Viện đang trấn giữ mặt Bắc chống quân Hung Nô, phong làm Phục Ba tướng quân với quyết tâm thống thuộc lại phương Nam, lấy lại uy thế cho triều đình Hán Quang Vũ Đế. Tuy nhiên, kể cả khi lão tướng Mã Viện uy danh lừng lẫy kinh nghiệm chiến trường thân chinh trấn áp, quân Hán vẫn bị các nữ tưởng trẻ trung của Hai Bà đánh cho phải ôm đầu máu. Theo sử cũ, quân của Mã Viện sau khi bình định xong Giao Chỉ, trở về  chỉ còn một nửa so với lúc xuất phát. Song, trước một đội quân hùng hậu, quen chinh chiến trận mạc với những mãnh tướng dày dạn, lực lượng nghĩa binh của Hai Bà phần lớn là dân binh theo cờ tụ nghĩa, vũ khí sơ sài đã không trụ nổi. Nghĩa quân từng bước bị truy quét và tận diệt. Tuy nhiên, có một tồn nghi lịch sử chỉ được lưu truyền trong dân gian: Mã Viện phải dùng đến kế thứ 37 "Tam thập thất kế cởi truồng vi thượng sách" mới thắng nổi nghĩa binh của Hai Bà. Mã Viện (sau khi mất) bị các quan tấu lên lời đồn này, Hán Quang Vũ Đế tức giận tước thái ấp và tước hầu (!). Cũng theo dân gian, "Tam thập thất kế cởi truồng vi thượng sách" còn liên quan đến Lục Dận với khởi nghĩa của Bà Triệu, tuy nhiên, đây cũng chỉ là "lời đồn", tức ngoại sử. Dẫu vậy, lời đồn trong dân gian thường không ngẫu nhiên mà có, nhiều tình tiết kỳ ảo trong thần thoại, truyền thuyết tưởng chỉ có trong tưởng tượng, hoang đường ngày nay đã được chứng minh là có thật với sự phát triển của khoa học và ngành khảo cổ học. Chẳng hạn, Con ngựa thành Troy trong chuyện cuộc chiến thành Troy của thần thoại Hy Lạp; Nỏ Thần An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương; Gà chín cựa ngựa chín hồng mao trong thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh v.v… Thời gian luôn có tác dụng thanh lọc, nhưng những gì cứ sống mãi trong ký ức nhân dân chắc chắn có lý do tồn tại. Với thể loại tiểu thuyết, tác giả hoàn toàn có thể dựng tình tiết hư cấu này từ lời đồn của ngoại sử. Đó là tình tiết đắt giá, tiếc lắm thay!

Vẫn với lối kể hào sảng và dí dỏm, bộ tiểu thuyết hai tập Trưng Nữ Vương đáp ứng khoái cảm trí tuệ và thẩm mỹ bằng phông kiến văn phong phú, cách cài cắm chi tiết phục bút, kết hợp hài hòa ngôn ngữ hiện đại và cổ xưa, tác giả đã cho người đọc hình dung sống động về lịch sử một thời đại bi tráng, tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng kiêu hành của dân tộc.

Lịch sử dựng nước, giữ nước 4000 năm của dân tộc ta thật vô cùng hùng vĩ, hiếm có. Song, phần cổ sử, ngoài những dòng tổng kết, nhận xét sơ lược, chúng ta khuyết thiếu hẳn mảng văn chương có thể làm sống lại những trang sử hiển hách ấy.

Hành trình theo đuổi thể tài tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai gợi cảm giác về một người đang nỗ lực hoàn thành sứ mệnh được giao phó bằng toàn bộ ý chí và niềm đam mê. Tác giả đã từng bước hoàn thành bằng sự nghiêm túc, cẩn trọng, hết lòng. Thán phục và yêu mến lắm thay!   

H.D.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm