TIN TỨC

Tôi đọc hiểu bài thơ “Vô minh” của Trương Xuân Thiên như thế nào?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-12 10:43:51
mail facebook google pos stwis
3212 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

VÔ MINH là một bài thơ được rút từ tập thơ ÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên, do Nhà xuất bản VĂN HỌC ấn hành năm 2017. Đó là bài thơ đầu tiên, ở trang 11, trong tập thơ này:
 

VÔ MINH

Thánh thần từ độ vô minh

Trần gian tuyệt chủng ân tình đêm nay

Tin yêu chịu kiếp lưu đày

Lời thề quẫn bách ăn mày tứ phương

 

Đất trời từ độ tang thương

Chân tình gieo rắc tai ương khắp miền

Khát khao tỏa sáng muộn phiền

Mặt trời xõa tóc dại điên khóc cười

 

Ô kìa một lũ mặt người

Ngời trong hốc mắt con ngươi mù lòa

Thật thà nô lệ điêu ngoa

Mùa xuân bức tử nhành hoa cuối cùng

 

Nấm mồ chôn xác thủy chung

Hồn ma oan khuất cháy bùng thương đau

 

Tôi đã đọc VÔ MINH … đến...

Thôi đành níu áng mây trôi

Thắp mùa ân ái lên môi người tình

Tháng Ba nhỡ hẹn sân đình

Chỉ mầu hoa gạo vô minh cháy òa

(bài HOA GẠO, tr 122)
 

để rồi… thức tỉnh khi đọc nốt một bài thơ, chỉ có hai câu, ở cuối tập thơ:

Ta về ngủ dưới tàng cây

Trời xanh vừa nở đóa mây đầu lòng

(bài ĐÓA MÂY, tr 123)
 

thì dừng lại mãi ở hai bài thơ cuối cùng kia … để lại trở lên đọc lại VÔ MINH...

Và, tôi biết mình vừa mới đi hết một vòng thức nhận!?...

 

1.Tôi nghĩ mình sẽ có được gợi mở thêm, để đi tiếp hành trình đọc hiểu VÔ MINH nữa, một khi xem lại lời giới thiệu tập thơ chăng?...

Đây là lời ấy của nhà thơ Du Tử Lê, được trích vào tập thơ, với chỉ một câu, như sau:

“Lục bát của Trương được ngọn hải – đăng – siêu – thực dẫn đường cho mọi lênh đênh tìm về của thể Sáu Tám, vốn đẫm đẫm tâm cảnh và, cảm thức lạc lõng, bấp bênh của tuổi trẻ đương thời, trước những vấn nạn lớn lao, muôn đời của kiếp nhân sinh”

(ÁO HỒ LY, tr 5)

Nhưng những… “đẫm đẫm tâm cảnh và, cảm thức lạc lõng, bấp bênh”… hay… “những vấn nạn lớn lao, muôn đời của kiếp nhân sinh”, cũng chưa giúp được gì nhiều cho tôi trước thách thức MINH!..

Tôi tìm đến nhà thơ. Trương Xuân Thiên tự bạch:

“Với tôi, tôi muốn kiến trúc một thế giới khác. Một lục bát khác. Một cảnh giới khác. Ở đó tôi là vị Giáo chủ quyền năng. Hết thảy mọi sự trong cõi giới đó, phó thác linh hồn bằng những rung động vi diệu. Hỗn độn. Dung thông.

ÁO HỒ LY là một thế giới như vậy.”

(ÁO HỒ LY, tr8).

Là thế giới của những HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG được tạo bởi “những rung động vi diệu” của “linh hồn”; hay là “linh hồn” “rung động vi diệu” trước những HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG mà ai đó đã tạo ra? Tôi thấy vẫn chưa dễ thức nhận VÔ MINH ! Cái tấm choàng U TỐI vẫn chưa thể được vén lên, nhờ một lời giới thiệu, với dăm câu tự bạch, tuồng như vẫn nhằm né tránh.

Tại sao?!

Đành lại phải dẫn dụ thêm, giờ là chính THI NHÂN trong cuộc, bài thơ rút từ ÁO HỒ LY, trang 83:

 

THI NHÂN

Đêm nay con chữ rối bời

Thi nhân ngồi khóc bên trời tha hương

Gỡ từng sợi nhớ niềm thương

Mà đa đoan buộc vô thường truân chuyên

 

Chữ về tắm động lâm truyền

Mà ngôi lời sáng thượng huyền hoang vu

Vần thơ lạc chốn âm u

Tin yêu chịu kiếp lao tù hàm oan

 

Mười năm ngôn ý bất hoàn

Trăm năm thi tứ vẫn hoàn ái ân

Xuân thì một đóa thanh tân

Mà lời trong cõi phù vân khóc thầm
 

Bên song cơn gió mọc mầm

Vì sao côi cút lặng câm nói cười

 

Nhưng THI NHÂN ấy là ai? Tác phẩm THI NHÂN kia vẫn chỉ giúp tôi nhìn nhận ra một vài trong muôn vàn HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG nơi VÔ MINH ÁO HỒ LY mà thôi. Phải chăng là bởi THI NHÂN cũng chỉ là một trong cái thế giới HỖN ĐỘN của ÁO HỒ LY ?...

 

2. ÁO HỒ LY ! Tại sao lại là ÁO HỒ LY ?

Cái tên của tập thơ đã gợi lên một thoáng trách cứ trong tôi, rằng ai lại lấy cái thứ “quái đản” như thế để đặt tên cho “những rung động vi diệu” của “linh hồn” ?! Rồi tôi lại tự hỏi: ÁO HỒ LY có phải là cái áo của con Hồ Ly nó mặc không? Chợt cái định danh “quái đản” kia khiến tôi vỡ ra cái nhẽ rằng, đó là một cái vỏ (ÁO), trùm chứa bên trong là cái biến ảo (HỒ LY), hay có thể hiểu, đó là một nội dung, trong một hình thức, của một CÁI BIẾN ẢO...

Nhưng CÁI BIẾN ẢO kia là cái gì?

Rất may là trong tập thơ ÁO HỒ LY, ở trang 56 có một bài thơ có tên là ÁO HỒ LY. Bài thơ có “bật mí” được gì cho tôi không? Tôi xin dẫn dụ ra đây:

 

ÁO HỒ LY

Hồ Ly đan áo cho chồng

Mỗi đêm đan một mặn nồng lên môi

Thanh tân biếc biếc đâm chồi

Lụa là buốt buốt núi đồi linh linh

 

Ôi!... Đến cả bài thơ này cũng chỉ cho tôi được vài tia sáng, mấy vạch dấu hiện lên trên cái giải trường phổ nghĩa thâm u của VÔ MINH mà thôi. Bởi đó chỉ là chuyện riêng, rất điển hình, nhưng cũng rất riêng tư của Hồ Ly. Thì đấy, "...đan áo cho chồng" mà “Mỗi đêm đan một mặn nồng lên môi”, thì đâu có phải là đan áo; mà đó là câu chuyện “…biếc biếc đâm chồi” ; là cái chuyện ở bên trong cái áo; còn cái áo thì… đã cởi ra treo ở đầu kia rồi!...

Đành phải như Ngộ Không, nhưng tôi trở về không phải để nói với Đức Phật là đã “cân đẩu vân” vượt thoát bàn tay của Ngài; mà để nói với chính tôi rằng mình vẫn chưa ra khỏi cái ÁO HỒ LY, nếu chưa đi hết cung đường mã hóa VÔ MINH. Đúng! cái sự VÔ MINH ở đây nếu chưa được mã hóa, thì sẽ chẳng có chìa khóa, chẳng có sáng soi để đi tiếp... sẽ chỉ đứng ngoài ÁO HỒ LY mà thôi !...

 

3. VÔ MINH, tên của bài thơ đưa tôi đến một niệm căn Phật giáo. Chỉ một cái “nhắp chuột vi tính”, trong chỉ 0,52 giây, tôi đã có đến 220 triệu kết quả giải nghĩa VÔ MINH là gì. Tựu trung thì VÔ MINH u tối là mặt đối lập với TRÍ TUỆ sáng suốt; là sự nhận thức lầm lẫn, không đúng về bản ngã và thế giới, căn cốt của mọi bất thiện, khổ đau và bất hạnh…

Và tôi lại một lần nữa bắt đầu đọc hiểu lại bài thơ…

3.1. Ngay câu thơ đầu tiên: “Thánh thần từ độ vô minh”, tôi đã phải dừng lại. Bởi VÔ MINH lại xuất hiện! Có điều, giờ đây, nó chỉ định THÁNH THẦN, chứ không phải là một thứ “dân ngu khu đen” nào đó. Vậy THÁNH THẦN ở đây là ai?

Có phải là Thần thánh siêu nhiên vô hình, hoặc một chính vị Thần linh hữu thể... là những bậc Thần quyền Sinh – Sát chúng sinh vô thường, theo quan niệm dân gian không nhỉ?

Không phải! Chữ trong bài thơ viết rõ là “Thánh thần”, vậy có thể là dẫn chỉ đến Chúa Thánh Thần trong Kitô giáo chăng?

“Trong Kinh Tín Kính, Giáo hội tuyên xưng rằng: Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng Ban Sự Sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Đó là Ngôi Ba Thiên Chúa, xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, cùng bản tính Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Người là Đấng Vô Hình, không ai thấy Người bằng giác quan, nhưng có thể nhận ra Người qua những dấu chỉ và các tác động”. (Thí dụ như hơi thở, như gió…).

Nhưng CHÚA SÁNG THẾ thì làm sao có thể là VÔ MINH !?... Tuyệt đối không! Đức tin Kitô hữu không cho ai, cũng chẳng ai, có thể nghi ngờ về SÁNG THẾ cả! Đọc kỹ câu thơ tôi mới nhận ra cái “từ độ” lọt giữa một trước, là Đấng Vô hình Quyền năng Sáng Thế; và một sau, là “vô minh” – mặt đối lập của TRÍ TUỆ sáng suốt... "từ độ" ở giữa kia chính là một cái phiếm định.

"Từ độ" rõ ràng là không xác định thời gian khi nào, lúc nào, ngày tháng năm nào…địa chỉ nơi chốn nào… số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao… thảy đều phiếm chỉ, phiếm định… Ôi, chẳng có xác định gì cả !...

“Thánh thần từ độ…” làm gì có chuyện hồ đồ ấy ?! Cái “từ độ” tố với tôi là bài thơ mượn chữ “Thánh thần” để ẩn chỉ con người mà thôi. Vì chỉ con người mới có lúc thế này, có khi thế khác, hồ đồ lầm lẫn, chứ “Thánh thần” thì làm sao lại thế được, nhất là THÁNH THẦN CỨU THẾ !
 

Mặt khác, dùng chữ “Thánh thần” còn là thủ pháp “cáo mượn oai hùm” của bài thơ. Ở đây là mượn cái ngữ nghĩa Quyền lực sinh – sát bất lương của Cường quyền VÔ MINH. Do đó có thể nhận thấy từ cấu trúc câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh”, những sắc thái ngữ nghĩa tự vị (nghĩa đen), đã chuyển đổi thành những Ẩn dụ, những Hình tượng, đã thành Ngôn ngữ Thơ; chuyển tải và truyền đi không chỉ là THÔNG TIN “Thánh thần từ độ vô minh”; mà chính là THÔNG ĐIỆP “Chính thể Quyền lực từ độ U TỐI” –  tư tưởng của bài thơ !...

Nhưng, tôi xin nói trước và nói ngay ở đây, rằng cả cái vỏ hình thức (ÁO), lẫn cái ruột nội dung biến ảo (HỒ LY), thì như tác giả đã có lời tự bạch, rằng đó là cả “một thế giới” đã lại vào độ HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG. Vì thế câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh” còn chuyển tải một thông điệp rộng lớn hơn cái thông điệp Độc quyền ngụ ý mà tôi vừa nêu ra trên kia.

3.2. Rằng câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh” mở đầu bài thơ, mở đầu tập thơ, như một công cáo được tuyên ở đây, khiến tôi liên tưởng đến tuyên bố “CHÚA ĐÃ CHẾT” (tiếng Đức: Gott ist tot) cách đây hơn 130 năm của Friedrich Nietzsche. VÔ MINH“Thánh thần từ độ vô minh” có phải là tiệt diệt, có phải là cái thời điểm không còn, không có “Thánh thần” nữa, đúng không? Có phải là "từ độ" xuất hiện vụ nổ lớn “Binh bang” khiến HỖN ĐỘN lại trở về HỖN ĐỘN... phải không? “Thánh thần từ độ vô minh” ấy đã khiến mọi ngọn nguồn của ĐẠO LÝ, GIÁ TRỊ, TRẬT TỰ… đã có không còn nữa, cũng không còn cần đến nữa, đúng không!...

CHÚA là một NIỆM CĂN, cũng giống như THỂ CHẾ CẦM QUYỀN là một ĐỊNH CHẾ. NIỆM CĂN về cái TOÀN THỂ của ĐẤNG SÁNG THẾ đã không còn tồn tại, thì cái TOÀN THỂ cũng sụp đổ một cách hiển nhiên… Và, đó là căn nguyên của cái HỖN ĐỘN, khởi thủy cho cái DUNG THÔNG trong một VÔ CÙNG BIẾN ẢO “ÁO HỒ LY”, đúng không?!...

3.3. Thế nên, hiện tồn sau cái “từ độ” ấy là “tuyệt chủng ân tình”, “lưu đày” “tin yêu”, “quẫn bách” “lời thề”; là “chân tình” lại “gieo rắc” “tai ương”, “khát khao” chỉ biết “tỏa sáng muộn phiền”, và trời ơi, đến như cả “mặt trời” cũng “dại điên” “xõa tóc” “khóc cười” như ai…

Thế đấy!... Và đây, hiện ra là “một lũ mặt người”, mà từ thẳm sâu “hốc mắt” đã chỉ còn “ngời” lên tăm tối “mù lòa”… Còn gì khốn nạn và đau khổ hơn là khi “thật thà nô lệ điêu ngoa”; là khi cái ác thản nhiên “bức tử nhành hoa...” có lẽ là còn sót lại của ...mùa xuân” “...cuối cùng”

… Và rồi, cái gì đến đã đến! Ấy là “Nấm mồ chôn xác thủy chung”. Chính là xác của cái TOÀN THỂ, từ khởi đầu: Thủy phát, đến kết thúc: Chung cuộc; tất cả đã chết, đã VÔ MINH ! Tuy nhiên, Sinh - Trụ - Dị - Diệt… bóng tối VÔ MINH vẫn chỉ như là tấm choàng (ÁO) bao phủ, ủ ấp cái bên trong đó, chính là cái “Hồn ma oan khuất” đã và mãi vẫn “cháy bùng thương đau”...

“Hồn ma” ở câu thơ này, trong bài thơ MINH này, còn có thể là cái khác cái BIẾN ẢO (Hồ Ly) của CÁI THỰC TỒN đích thực chăng?...

3.4. Cái đích thực đó là gì? Đó là “một thế giới khác”, “một lục bát khác”, “một cảnh giới khác”... mà rất tiếc là tôi không thể nói đủ hết ra đây được, về cái thức nhận TOÀN THỂ của mình, trong một bài viết ngắn, được giới hạn chỉ về đọc hiểu bài thơ VÔ MINH ở đây. Bởi đó chính là “linh hồn”, là vi diệu” “rung động” cuộc tồn sinh trong cái “hỗn độn” “dung thông” diễn ra trong suốt cả tập thơ và hơn thế... với hàng trăm ngàn “rung động” “vi diệu” của những “linh hồn” vẫn “cháy bùng” biết mấy “thương đau” “oan khuất” vì đã phải như chết ngay giữa cõi sống đang sống…

Đó là lý do vì sao đọc VÔ MINHÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên, tôi đã nghĩ đến cáo chung “Chúa đã chết” của Friedrich Nietzsche. Thế giới sẽ như thế nào, tồn tại sẽ ra sao khi không còn, cũng không cần có CHÚA, thì tôi đã thấy từ người phát ngôn của F. Nietzsche: “Zarathustra đã nói như thế” (Also Sprach Zarathustra, tiếng Đức); cũng như một THỂ CHẾ sẽ như thế nào một khi nó VÔ MINH; và thay đổi nó ra sao, là cái mà tôi đã nhìn thấy ở ÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên!...

Đọc bài thơ MINH, tôi thấy đó như là một ĐỀ TỪ của tập thơ ÁO HỒ LY, cũng như một TUYÊN THÔNG về một THỰC TỒN đang sắp sửa…

Tôi nghĩ, một thế giới BIẾN ẢO như vậy, thì cần phải xông vào để sống trong nó, đồng cảm thông, cùng thức tỉnh với nó, Sinh - Trụ - Dị - Diệt cùng nó…, nghĩa là phải đọc cả tập thơ, cảm nhận hết, thức nhận đủ cả tập thơ, thì mới nhận thức được vì sao ÁO HỒ LY khởi thủy bằng việc “Thánh thần từ độ vô minh”; rằng VÔ MINH tồn tại như thế nào, TỒN TẠI sẽ ra sao trong VÔ MINHTỒN TẠI làm sao thoát khỏi VÔ MINH để tồn tại…

Nghĩ thế mà tôi đưa ra đây thức nhận của tôi về bài thơ MINH của Trương Xuân Thiên, như một khảo chiếu về THÔNG ĐIỆP của bài thơ, với ai đó khác, đã cùng đọc tập thơ ÁO HỒ LY với tôi và như tôi…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm