TIN TỨC

Trương Nam Hương, nhà thơ của cảm thức cội nguồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-06-30 20:55:23
mail facebook google pos stwis
4445 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Nhà thơ Trương Nam Hương sinh năm 1963 ở Hải Phòng, quê nội Thừa Thiên – Huế, quê ngoại Bắc Ninh. Tuổi thiếu niên, lứa tuổi quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách một con người, Hương sống xa quê nội. Năm 1975 đất nước thống nhất, mười hai tuổi - khi nhân cách sắp hoàn thành, anh không về nội mà theo gia đình vào Sài Gòn, sau đó ra Biên Hòa của miền Đông Nam bộ định cư.

Cho đến nay khi đã đi qua “Sáu mươi năm cuộc đời”, thời gian anh gắn bó với quê nội lúc dài nhất cũng chỉ nửa năm. Vì thế, dù Hương có viết: “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô” thì tôi qua tiếp xúc, thấy anh trong căn cốt, không liên quan gì với xứ sở “sơn bất cao, thủy bất thâm” của quê nội. Anh là người Bắc 100 %. Thể hiện qua chất giọng Hà Nội chuẩn, qua gu ẩm thực thích cà pháo mắm tôm ăn với canh rau đay mồng tơi, qua cách uống cà phê chậm rãi cùng bạn bè trong quán giữa Sài Gòn nồng nhiệt. Một làn gió heo may, một mùi hương hoa sữa, một quả bàng chín, một trái sấu rơi... cũng làm anh run rẩy. Bởi đó là kỷ niệm của anh, là tuổi thơ của anh trên đất Bắc.

Từ những riêng tư ấy, trở thành nhà thơ, thơ Hương không có cái dữ dội của thơ miền Trung, cái phóng túng rênh rang của thơ Nam bộ, mà thơ Hương luôn mượt mà bay bổng, đặc trưng của thơ miền Bắc. Xuất phát điểm khác nhau, cảm nhận về đối tượng được phản ánh cũng khác nhau. Đều là dân tập kết mà Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân) viết “Nhớ mưa quê hương” với những chi tiết rất cụ thể: “…Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm/ Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông/ Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm/ Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong”, thì nỗi nhớ quê hương trong thơ Hương lại bàng bạc, liêu trai: “Anh vịn màu rêu Huế để yêu em…”. Ấy bởi Ca Lê Hiến sinh năm 1940, tập kết ra Bắc năm 1954 khi đã 14 tuổi, đã kịp sống với quê hương. Còn Trương Nam Hương “Con từ xa Huế sinh ra”, quê hương anh được biết đến đầu tiên qua hình bóng người cha, vì thế mới “Anh vịn”, Anh mượn!” Nhưng nắng mưa cây cỏ Huế có màu gì; giống, khác thế nào với nắng mưa cây cỏ đất Bắc? Tôi không biết. Hương chắc cũng không biết. Thực tế trong đời sống có một màu không ngả qua đen, không tía qua đỏ mà chỉ đủ đậm như màu mực học trò trên giấy trắng. Và nó mang đến cho người ngắm bao nỗi niềm sâu kín cùng những tâm sự ngổn ngang, ngơ ngẩn… màu ấy được gọi là “tím Huế”. Người đầu tiên định danh “tím Huế” là ai? Công dân Huế hay công dân của một vùng đất khác? Điều đó không quan trọng, quan trọng là Huế đã khiến ông (hay bà) nghĩ vậy, và khi ông (hay bà) ấy nói ra thì ai cũng thấy là không thể khác. Từ đó, với người phụ nữ Huế và với cộng đồng, màu tím ấy là màu Huế - vừa là màu áo, vừa là sự biểu hiện của tấm lòng đức hạnh. Vì thế mới có “Thuỷ chung tình bạn chùm hoa tím/ Hôn đóa hoa thơm, tưởng Huế gần…” (Tố Hữu). Đến lượt mình, chàng Trương thi sĩ của chúng ta, người có số hưởng, đã mặc nhiên thừa nhận, lấy đó làm điểm tựa xây đắp cho mình một tình yêu và chàng yên tâm ngay khi thấy: “…Vững như núi, Huế lại đằm như nước/ Vạt áo dài mây trắng xuống thi ca…”.

Thơ Hương là vậy, không rối rắm chữ nghĩa, không tân kỳ hình thức. Từ khi đặt bút viết những câu thơ đầu tiên anh đã chọn cho mình một phong cách thơ bình dị, gần gũi và thuần hậu. Về mặt hình thức, Trương Nam Hương không xa lạ một thể loại thơ nào, nhưng chuộng nhất có tứ tuyệt, ba câu và thơ lục bát. Trong số đó, trừ thơ ba câu, còn tứ tuyệt và lục bát đều là những thể thơ mà độ phủ sóng rộng khắp toàn cõi nước Việt (đã đành), còn theo những bước chân di dân của người Việt ra thế giới, dù tứ tuyệt có nguồn gốc từ thơ Đường từ thế kỷ XII. Tứ tuyệt, ấy là một thể thơ mà khi sự hàm súc đạt đỉnh, có thể gói được cả vũ trụ vào trong. Tuân thủ nghiêm nhặt niêm luật, tứ tuyệt của Trương Nam Hương lúc thủ thỉ tỏ bày, lúc như một tiếng thở dài sau nhiều kìm nén, khiến ta thắt lòng: “Mẹ giờ hóa nén hương thơm đỏ/ Thương lặng nhìn con chẳng rụng tàn/ Khói thắt se vòng lo mẹ nặng/ Cõi về cong vít cả thân nhang” (Mẹ). Lúc giống như những tia chớp giữa cơn giông, vụt lóe trong khoảnh khắc mà soi rõ được bao la… Và đẹp, một vẻ đẹp cổ điển thường chỉ thấy trong cổ thi: “Ngày mỏng mờ hơn chuông rõ hơn/ Trúc vin nghìn bậc đá rêu mòn/ Núi khom khom vái mây dâng lễ/ Tùng thắp xanh trời vạn nén thơm!” (Lên Yên Tử).

Cùng với thơ tứ tuyệt, Hương sử dụng nhiều thơ ba câu. Tôi không thích thơ ba câu. Nó mang lại cho tôi cảm giác chơi vơi, chân không đến đất, đầu không đến trời. Thơ ba câu của Trương Nam Hương thuyết phục tôi ở sự uyển chuyển của câu chữ, ở khả năng gắn kết, độc lập đấy mà ràng rịt đấy. Ví dụ bài Lỗi hẹn sông Cầu: “…Tháng giêng hoa xoan rơi vụng dại/ Em với sông Cầu xanh ở lại/ Anh đi rét ngọt giữa tay cầm// Cỏ níu chân sông mùa thiếp ngủ/ Em tiễn cái nhìn đau cả gió/ Chiều chớp đầy anh… mắt lá răm…”. Hai khổ thơ này, đứng độc lập đã là hai bài thơ trọn vẹn. Đứng trong bài, làm nên một thể thống nhất câu chữ, để lại dư vị tiếc nuối, ngọt ngào về những ân nghĩa cuộc đời mà mình bỏ lỡ…

Nhưng phải đến lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc nhà thơ của chúng ta mới bày tỏ được hết công phu. Đụng vào lục bát, Hương như cá trong nước, chim trên trời, tung tăng sải vây, tung cánh.

Để đổi mới lục bát, cách chung của nhiều người là ngắt câu, bẻ chữ, xuống dòng. Làm gì thì cũng phải đảm bảo nhịp 6/8. Hương khác hơn, từ những chữ mòn nhẵn, anh biến tấu, thay đổi, làm mới, biến chúng thành của riêng mình: “Tiếng sông úng ớ”, “Mưa nắng tung tuây cái tôm cái tép”, “Em hây hẩy khép chiều ngấn mẩy”, “Nửa giờ thấp thểnh oai xưa”, Sóng nước ngung nguây vỗ mạn thuyền… Tìm chữ cũng giống như tìm vàng, phải dày công đãi cát. Và khi đã gặp, nó làm cho câu thơ trở nên có hồn, sáng rỡ, găm sâu vào trí nhớ người đọc, khiến người đọc day dứt mãi không thôi. Nỗ lực “bảo toàn” thơ bằng thơ! Có lẽ vì thế, hàm lượng những câu thơ hay, những câu thơ lục bát hay trong thơ Hương rất nhiều. Ví dụ: “Tết nghèo bánh lá thay cơm/ Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn/ Con cầm thương khó run run/ Muốn khoe với cả mưa phùn mẹ ơi”; ví dụ:“Anh xa đất Bắc mười năm/ Tay em Hà Nội, xin cầm hơi lâu/ Hỏi mùa hoa sữa nơi đâu/ Câu thơ ngồi khóc, mắt nâu lại buồn…”; ví dụ: “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”; ví dụ: “Khi người đánh bóng tuổi tên/ Anh đi tìm hộp xi đen đánh giày”; ví dụ nữa: “Váy người ngắn đến mê ly/ Ngẫm thơ tứ tuyệt nhiều khi còn dài”

Đọc câu thơ này của Hương, tôi bỗng nhớ giai thoại về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo phương Tây thời chống Mỹ. Sau những trao qua đổi lại với người đứng đầu Chính phủ Bắc Việt về những vấn đề mình quan tâm, nhà báo chợt hỏi: “Ngài nghĩ gì về chiếc mini juyp?” Thủ tướng hóm hỉnh: “Tôi nghĩ, nó không thể ngắn hơn được nữa!”. Thông tuệ như Thủ tướng mà vẫn không tiên liệu hết được sự phát triển của cuộc sống, của thơ. Bởi sau khi ông mất không lâu (năm 2000), Việt Nam chuyển hướng, bước sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và những chiếc mini juyp mà ông tưởng ngắn tối đa dạo nào, đã trở nên ngắn hơn. Cái nhớ của tôi, phê bình văn học gọi là “liên tưởng”. Thơ càng hay, càng tạo ra nhiều liên tưởng thú vị.

Bài hay trong thơ Hương cũng nhiều, nhưng nếu tìm một bài hay nhất trong tập thơ mới nhất của anh xuất bản mấy năm trước “Thời nắng xanh & những bài thơ khác”, anh viết về quê nội, viết về người cha kính yêu thì không phải Màu Huế, hay Nhỡ mùa sen, mà là bài Lời thưa: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca// Con từ xa Huế sinh ra/ Nắng mưa thấm tiếng oa oa đầu đời/ Cha – dòng sông nhớ - con bơi/ Đắng cay vào giọt mồ hôi bến bờ// Nổi nênh quá tuổi dại khờ/ Con thương Huế với câu thơ lụy tình/ Chênh vênh quá nửa Ngự Bình/ Huế cho con cả cung đình rêu phong// Thăng trầm dạ nhớ thưa mong/ Thời gian mái đẩy long đong điệu hò/ Hồn cha giờ hóa con đò/ Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn// Con cùng tên với dòng Hương/ Thơ con trắc ẩn cánh buồm, cha ơi.” Những câu thơ ngân nga ở tầng sâu, ở nơi giáp ranh hư thực, mộng mơ và huyền ảo, như những lớp màn sân khấu mở ra đưa người đọc vào hút sâu tâm trạng, tâm sự.

Thơ Hương là thơ trữ tình. Thơ trữ tình nói về mình. Hương chỉ nói về mình, về tuổi thơ theo tiếng tàu điện leng keng ra Bờ Hồ. Về tuổi học trò trắng trong như tờ giấy trắng, về con sông Hồng đỏ nặng phù sa, về bà ngoại thương khó, về người cha tuổi thơ anh thần tượng… Chỉ thế thôi, mà đọc lên thấy man mác buồn, thấy hồn vía những câu thơ thăm thẳm. Đấy cũng là vị chung của thơ Hương trong tập, trong toàn bộ thơ Hương từ trước tới nay. Không dưng mà trong một bài bình về “Khúc hát người xa xứ” tập thơ đầu tay của Trương Nam Hương cách đây hơn 30 năm (1990), Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã viết: “Trương Nam Hương – Hồn thơ đẹp như nỗi buồn”. Nỗi buồn cảm thông, nỗi buồn chia sẻ. Từ những nỗi niềm ấy, mẹ cha, quê ngoại quê nội luôn là niềm thi hứng lớn lao cho anh. Do thiên chức đặc biệt của mẹ, con cái thường đặt nặng tình cảm vào mẹ hơn cha. Các nhà thơ vì vậy, thường chỉ viết hay về mẹ. Hương khác hẳn, viết hay cả hai. Ở những bài thơ Hương viết về cha - mẹ, cảm thức cội nguồn trong anh hiện ra rõ nhất. Đã hơn một lần thơ anh nhắc đến NGUỒN: “Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn…”, “Giờ xin ngồi khóc với nguồn…”,  “Nói ra cứ sợ làm đau đến nguồn…” Nguồn, với quê cha là sự tìm về; với quê mẹ là cảm thương, ơn nghĩa, là Hà Nội, Sông Hồng, là miền Quan họ, là cả một miền Bắc nước Việt diệu vợi phía sau. Mẹ hiện diện ở khắp nơi: Trăng thắp nến đợi sông ngày trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng làm máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa/ Mẹ nuôi ấm đời con bằng Quan họ/ Thuở trúc xinh gọi chú ớt ơi à/ Môi đã ríu mạn thuyền thưa Quán dốc/ Mắt đã dài cho ướt cả ngày xa/ Trăng ửng lớn một lần con dối mẹ/ Đánh rơi đêm vào chỗ rễ si xòa/ Sông mẹ thức trắng nửa bờ lau nhắc/ Mai con về tạ lỗi với phù sa (Nhớ sông Mẹ)

Cùng với cảm thức cội nguồn, đọc “Thời nắng xanh…” của Trương Nam Hương, ta còn cảm nhận rõ một cảm thức khác trong thơ anh hôm nay là cảm thức tiếc nuối tình yêu, tuổi trẻ. Cảm thức ấy trải đều, mang mang, hoang hoải suốt tập thơ. Và trong niềm thương nỗi nhớ về quá khứ, anh bật lên những câu thơ thật “đau”, những bài thơ xát lòng như muối xát: “Em không đến trường mùa Thu năm ấy nữa/ Em không đến trường cả mùa Thu năm sau/ Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa/ Theo mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu…” (Xa  lắc mùa thu). Hoặc: “Năm anh mười bảy/ Sông Hồng tuổi em/ Bờ đê. Đêm ấy…/ Sóng. Trăng. Cỏ mềm…/ Anh vốc nước lên/ Chạm môi em đỏ/ Khoác vai bóng thuyền/ Buồm lơi nếp gió/ Em đổ đầy anh/ Tiếng sông úng ớ/ Mắt sao mướt xanh/ Rơi nhòe ngấn cỏ/ Ngày trăng biết nhớ/ Sông Hồng biết yêu/ Năm anh mười bảy/ Cầm con sóng liều…/ Rồi anh biền biệt/ Dạt trôi bao miền/ Ba mươi năm ấy/ Sông Hồng hóa em! (Sông 17 tuổi)…

*

Năm 1990, Trương Nam Hương trình làng tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ, và lập tức nổi danh, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, rồi được kết nạp “đặc cách” vào Hội, vượt ngoài quy định “muốn vào Hội phải xuất bản ít nhất 2 tác phẩm được dư luận tốt”. Ở thời điểm ấy, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá này. Hơn ba mươi năm trôi qua, đến nay Trương Nam Hương đã xuất bản hơn mười tập thơ, sở hữu nhiều giải thưởng thơ, nhiều danh hiệu thơ đặc biệt, như: “Nhà thơ được yêu thích nhất” do báo Người lao động bình chọn năm 1992, “Gương mặt văn học 20 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 1995”, “Gương mặt văn học 30 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 2005”.

Thời nắng xanh & những bài thơ khác là tập thơ mới nhất nhà thơ Trương Nam Hương trình làng. Đọc thấy mừng, thấy ông vẫn giữ được phong độ, không có bài nào xuống tay. Điều nói nghe nhẹ bổng này, nhưng chỉ những thi tài đích thực mới làm được.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 – 2023

(Nguồn: Tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam số 23 (3302), ngày 10/6/2023)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm