- Lý luận - Phê bình
- VHNT Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025)
VHNT Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025)
PGS.TS, Nhà văn NGUYỄN THẾ KỶ
Các giá trị văn học, văn hóa truyền thống trước đây chưa được nhìn nhận một cách khách quan và thỏa đáng thì đến lúc này được tiếp cận, nghiên cứu, lý giải rành mạch và thuyết phục hơn.
1. Bối cảnh tình hình
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), đề tài lớn nhất, có tính xuyên suốt của văn học, nghệ thuật là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là kháng chiến, kiến quốc; là lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng; xây dựng chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân vật chính, nhân vật trung tâm của văn nghệ lúc đó là anh Vệ quốc, anh Giải phóng quân, Bộ đội Cụ Hồ; là nông dân, công nhân.
Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước sang một trang sử mới - trang sử hòa bình, thống nhất, đồng thời cũng mở ra cho văn học, nghệ thuật nước nhà một không khí mới, không gian mới, thống nhất, giao hòa, phát triển trong tính tổng thể, tiến bộ, cách mạng, bắt nhịp, cổ vũ, đồng hành với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Ở giai đoạn sau năm 1975, văn học nghệ thuật chịu tác động đa chiều của bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế lúc đó: a) Sự hòa hợp, gắn kết giữa văn nghệ cách mạng xã hội chủ nghĩa với văn nghệ yêu nước, tiến bộ, có tinh thần dân tộc; b) Sự mâu thuẫn, hòa giải, tác động, đấu tranh giữa văn nghệ cách mạng, yêu nước, tiến bộ với một bộ phận văn nghệ phản động, sai trái từng phục vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đế quốc Mỹ xâm lược; c) Sự pha trộn, tác động, đấu tranh về tư tưởng văn hóa và tâm trạng xã hội; d) Sự khác biệt giữa thời bình và thời chiến, giữa cái cũ, cái quen thuộc và cái mới, cái khác lạ; e) Sự khác nhau giữa cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và cơ chế thị trường bắt đầu được áp dụng ở nước ta... Tất cả những điều đó đã khiến cho những người sáng tạo văn học, nghệ thuật; những người làm công tác lý luận, phê bình, quản lý văn học, nghệ thuật và công chúng khó tránh khỏi những ngỡ ngàng, lúng túng, những vui mừng, háo hức và cả những nỗi buồn, u uất của một thời.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát triển văn học, nghệ thuật, có thể kể đến các nghị quyết tác động trực tiếp và mạnh mẽ như Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị (khóa VI) về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới. Nghị quyết nhấn mạnh: “Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính”. Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”. Nghị quyết yêu cầu phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, tập trung xây dựng, phát triển văn nghệ chuyên nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn hóa, văn nghệ dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn áp đặt, “xâm lăng” văn hóa của các thế lực thù địch.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”... “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật
2. Tiến trình thống nhất, đổi mới, phát triển ở một số lĩnh vực
2.1. Văn học
Các nhà văn có thêm những thành tựu, kết quả mới hoặc đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975 như Tố Hữu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Khải, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Nhuận Cầm, Vương Trọng… Tiếp bước họ, đội ngũ của những người cầm bút giai đoạn đổi mới dần trưởng thành và đã có được những dấu ấn, kết quả nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Chu Lai, Nguyễn Mạnh Tuấn, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư... Văn học các dân tộc thiểu số cũng có sự khởi sắc với Y Phương, Lò Ngân Sủn, Cao Duy Sơn, Inrasara(1)...
Trước đây, có những mảng hiện thực ít được phản ánh hoặc phản ánh chưa đầy đặn, sâu sắc thì đến lúc này, các nhà văn chú ý nhiều hơn, có thêm những khám phá, sáng tạo mới mẻ. Trong ý thức và tư duy của các nhà văn, đã có những đổi thay quan trọng, thậm chí, có sự biến đổi trong “hệ hình ý thức”. Quan hệ giữa nhà văn và hiện thực cuộc sống đã có những tham chiếu và cái nhìn khác trước, họ nhìn hiện thực bằng con mắt khách quan, đằm sâu, tìm hiểu, lý giải cả những góc khuất, mặt trái, những mất mát, khổ đau của chiến tranh, của đời sống thường nhật, của thân phận con người.
Xu hướng sử thi, viết về các đại tự sự có tính chất và tầm vóc dân tộc, quốc gia, giai cấp, thời đại, các sự kiện và nhân vật lịch sử tiêu biểu dần giảm xuống, chất đời thường, đời sống cá nhân được tăng lên trong sự đổi mới hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật. Sự thay thế “cái nhìn sử thi” bằng “cái nhìn tiểu thuyết” là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết đương đại. Các nhà văn đề cao tinh thần phê phán, phản biện, tự ý thức của mỗi con người trên tinh thần nhân văn, dân chủ. Quan niệm con người kiểu sử thi - luôn vươn lên trở thành những biểu tượng về cái đẹp, cái hào hùng trong văn học giai đoạn trước đã chuyển dần sang quan niệm con người thế sự với những trăn trở, vật lộn đời thường, có cả mặt tốt, mặt xấu, nhân văn và tha hóa, thậm chí tha hóa nghiêm trọng. Bên cạnh những tác phẩm vẫn gắn bó với đề tài lịch sử, những sự tích anh hùng là những tác phẩm sử thi nhiều hơn chất sáng tạo, lịch sử như là cái cớ để nhà văn thể hiện những sáng tạo mang đầy chất thế sự - hiện thực của mình. Tính đối thoại với lịch sử, nhìn lại lịch sử, “phản cổ tích”, “giải huyền thoại”... cũng đã tạo nên những phản ứng khác nhau, có lúc trái chiều của giới nghiên cứu lý luận, phê bình và bạn đọc(2).
Ở thể loại truyện ngắn, xuất hiện kiểu nhân vật mới - nhân vật ít hoặc chưa từng xuất hiện trong văn học (nhân vật cô đơn, nhân vật bản năng, nhân vật sám hối, nhân vật phản bội, tha hóa...). Một trong những sự thay đổi được coi là “bước ngoặt” của truyện ngắn đương đại chính là khả năng nhận diện, khám phá hiện thực bằng cái nhìn cá thể; sử dụng kiểu cốt truyện co giãn linh hoạt, cốt truyện lỏng lẻo hay kiểu kết cấu bỏ ngỏ...
Cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết, ký cũng là một thể loại có nhiều đổi mới. Ký đương đại đã mạnh dạn, tự tin đi vào những góc khuất của đời sống hiện thực; trực diện, thẳng thắn bày tỏ quan điểm, thái độ cũng như những suy tư, trăn trở về cuộc sống mới. Tản văn là một thể loại được ưa chuộng, số người viết tăng nhanh.
Nói về văn xuôi đương đại, không thể không nói đến sự pha trộn thể loại, như một đặc trưng của văn học giai đoạn này, đó là chất ký trong tiểu thuyết và truyện ngắn; chất thơ trong truyện, chất truyện trong ký. Độ mờ nhòe giữa các thể loại, sự đan xen các loại ngôn ngữ, các thể loại trong cùng một tác phẩm đã tạo nên dấu ấn rõ nét trong văn xuôi tự sự đương đại.
Một vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình là sự xuất hiện của văn học “hậu hiện đại” trong văn chương Việt Nam sau năm 1986. Có thể thấy dấu hiệu của xu hướng này trong các sáng tác giai đoạn gần cuối sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Minh Châu: Phiên chợ Giát, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa... Cảm quan “hậu hiện đại” trong sáng tác biểu hiện ở sự xáo trộn, “rạn vỡ” nào đó của trật tự xã hội, sự phai nhạt hay lung lay niềm tin ở mức nào đó của con người... Có thể nhận ra điều này trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Không có vua, Muối của rừng, Con gái thủy thần)... và trong tác phẩm của một số tác giả khác.
Văn học hậu hiện đại vừa có sự ảnh hưởng từ văn học phương Tây, vừa ít nhiều mang tính nội sinh. Do đó, “hậu hiện đại” cũng giống như nhiều trào lưu văn học, văn hóa khác, khi vào Việt Nam đều không mang tính triệt để, tức là nó không mang đầy đủ các đặc trưng của “hậu hiện đại” phương Tây. Phong cách của nhà văn đương đại Việt Nam có sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, giữa hiện đại và hậu hiện đại, giữa cách viết cũ và việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mới trong sáng tác.
Nói về thành tựu của văn học đương đại Việt Nam không thể không nói đến những đóng góp của các nhà văn Việt Nam ở nước ngoài. Đó là Thu Tứ, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thị Hoàng, Linda Lê, Nguyên Sa, Nguyễn Thụy Vũ, Nguyễn Bá Chung, Hoàng Khởi Phong, Ocean Vương, Nguyễn Huy Hoàng, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Phan Quế Mai, Thuận, Kiệt Tấn, Trương Anh Tú, Hiệu Constant, Quỳnh Iris de Prelle, Viet Thanh Nguyen, Doan Bui, Vũ Trần, Isabelle Thuy Pelaud, Lan Dương, Bích Minh Nguyễn, Thanhha Lai, Monique Trương, Kevin Nguyễn, Quan Barry, Amy Tan...
Dù có những đổi mới nhưng thơ sau năm 1975, thậm chí sau 1986 vẫn chưa hình thành rõ rệt các khuynh hướng, phong cách thật rõ. Nói đến sự đổi mới của thơ đương đại, không thể không nói đến độ “chín” và những thành công tiếp nối của Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Hoàng Nhuận Cầm... ở mảng đề tài chiến tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong dòng chảy của thơ đương đại, thơ các dân tộc thiểu cùng với tên tuổi của các nhà thơ Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu... đã có thêm các cây bút mới như Y Phương, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Inrasara, Lò Ngân Sủn, Hùng Đinh Quý, Mai Liễu, Niê Thanh Mai, Hơ Vê, Bùi Tuyết Mai...
Ngoài những thành tựu trên, thơ đương đại vẫn còn có một số tập thơ, câu thơ rơi vào bệnh hình thức, cá biệt có tập thơ sử dụng những ngôn từ và hình ảnh thiếu cả tính văn hóa lẫn nghệ thuật, sa vào tục tĩu, “thơ rác”, “thơ bụi”, “thơ dơ”, “thơ bẩn”, “thơ lạc chuẩn”…
2.2. Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, việc lựa chọn và tiếp nhận các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, phê bình của nước ngoài và vận dụng vào Việt Nam đã có những gắng gỏi và kết quả đáng khích lệ. Các lý thuyết hiện đại như Thi pháp học, Văn học so sánh, Loại hình học, Tự sự học, Lý thuyết diễn ngôn, Phân tâm học… đã trở thành công cụ khá quen thuộc của nhiều nhà lý luận, phê bình trong nước. Nhờ đó, giới lý luận, phê bình có thêm góc nhìn, tầm nhìn mới, thay đổi dần tư duy cũ và cả cách viết cũ. Xuất hiện những nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình có tư duy, năng lực và phương pháp khoa học vững vàng hơn, tác động tích cực và rõ ràng đến đời sống văn học, nghệ thuật(3).
Các giá trị văn học, văn hóa truyền thống trước đây chưa được nhìn nhận một cách khách quan và thỏa đáng thì đến lúc này được tiếp cận, nghiên cứu, lý giải rành mạch và thuyết phục hơn. Ví dụ: việc đánh giá lại phong trào Thơ mới, Tự lực văn đoàn, Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ, văn học, nghệ thuật vùng tạm chiếm 1946 - 1954, 1954 - 1975, kể cả các hiện tượng, nhân vật khá phức tạp, nhạy cảm như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trương Tửu…
Công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật đã có bước tiến đáng kể, nhất là sự chuyển giao thế hệ, sự gắn kết giữa các thế hệ, sự xuất hiện của những công trình nghiên cứa, các chuyên luận có giá trị(4). Đã hình thành thế hệ các nhà lý luận, phê bình có trình độ, năng lực, phương pháp bảo đảm, có trình độ ngoại ngữ và khả năng tiếp xúc, tiếp biến các tư tưởng mới, các hệ thống lý thuyết phương Tây và vận dụng vào từng không gian văn học, nghệ thuật tương thích để giải mã tác giả, tác phẩm, hiện tượng, quá trình(5).
Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet
2.3. Sân khấu
Sân khấu đương đại có sự phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới với các tác giả Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Xuân Đức, Xuân Trình, Tất Đạt, Hoài Giao, Thanh Hương, Nguyễn Khắc Phục, Doãn Hoàng Giang, Chu Thơm, Nguyễn Huy Thiệp… Ở các giai đoạn tiếp theo, sân khấu bớt dần sự sôi động, nguyên nhân chủ yếu là thiếu vắng dần những tác giả, tác phẩm có khả năng thu hút công chúng; sự lấn sân, tranh chấp công chúng của các loại hình nghệ thuật trên các phương tiện nghe nhìn và không gian mạng… Hiện tượng Lưu Quang Vũ chói sáng trong khoảng thời gian 10 năm (từ 1978 đến lúc bị tử nạn - 1988) với hơn 50 kịch bản sân khấu đề cập trực diện, mổ xẻ táo bạo những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của xã hội(6). Cùng với Lưu Quang Vũ, các tác giả khác cũng cho ra mắt những vở kịch mới, có những vở thành công(7).
Nếu như “bước ngoặt” quan trọng thứ nhất của kịch đương đại là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới thì “bước ngoặt” thứ hai được tính từ năm 1997, khi chủ trương xã hội hóa có hiệu lực và năm 2002, sân khấu thực hiện cơ chế tự chủ. Giai đoạn này, sân khấu đã lôi cuốn giới sáng tạo vào hai khuynh hướng: dựng lại những vở cũ, đi vào đề tài cổ tích, dân gian, lịch sử; và khuynh hướng đáp ứng nhu cầu giải trí của khán giả và có tiền nuôi sống các đoàn nghệ thuật(8). Một số đoàn nghệ thuật sân khấu ngoài khu vực nhà nước đi vào cơ chế thị trường với những nổi chìm khác nhau: Sân khấu Lệ Ngọc (phía Bắc), Nụ Cười Mới, Nhà hát Thế Giới Trẻ, Sân Khấu Nhỏ, Sân khấu kịch TKC (phía Nam).
Cho đến hôm nay, mặc dù đã có những đổi mới và tiến bộ, sân khấu nói chung, nhất là sân khấu truyền thống đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức, kể cả bên bờ vực của sự sống chết.
2.4. Điện ảnh
Sau năm 1975, điện ảnh Việt Nam có nhiều đổi mới. Đội ngũ làm phim đông đảo, máy móc, thiết bị hiện đại, đề tài làm phim đa dạng hơn. Ngoài những phim về chiến tranh, còn có thêm các đề tài về đô thị miền Nam, về cuộc sống thời hậu chiến.
Xưởng phim Giải phóng - thành lập từ tháng 1 năm 1962 - được mở rộng quy mô, sản xuất nhiều loại hình phim, đổi tên thành Xưởng phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Một xưởng phim khác mang tên Nguyễn Đình Chiểu cũng được thành lập mà tiền thân là hãng phim Alpha của Sài Gòn trước năm 1975.
Bộ phim đầu tiên được ra đời sau 1975 là Bên lề 30-4. Tiếp đó, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt bộ phim Cô Nhíp (1976). Ở phía Bắc, Hãng phim truyện Việt Nam có các phim Ngày lễ thánh của Đạo diễn Bạch Diệp và Sao tháng Tám, đạo diễn Trần Đắc.
Phim Cánh đồng hoang do nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, hai diễn viên chính là Lâm Tới và Thúy An. Cánh đồng hoang đã giành được nhiều giải quan trọng trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 năm 1980 và Huy chương Vàng tại Liên hoan phim Quốc tế Moskva, 1981.
Từ thập niên 1980 trở đi, đề tài làm phim đa dạng, phong phú hơn. Đạo diễn Phạm Văn Khoa có hai bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học, Chị Dậu (1980) từ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Làng Vũ Đại ngày ấy (1983) từ Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao. Đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng cho ra mắt nhiều bộ phim xuất sắc: Thị xã trong tầm tay (1982), Bao giờ cho đến tháng Mười (1984), Cô gái trên sông (1986), tiếp đó là các phim Trở về (1994), Thương nhớ đồng quê (1995), Hà Nội mùa đông năm 46 (1997), Mùa ổi (2001), Đừng đốt (2009).
Luồng gió mới đến với điện ảnh Việt Nam khi các nhà làm phim nước ngoài và các nhà làm phim Việt kiều vào Việt Nam sáng tạo tác phẩm. Những tác động của họ làm cho điện ảnh Việt Nam hội nhập tốt hơn với khu vực và thế giới(9).
Từ giữa thập niên 1990 trở đi, số lượng phim tăng lên. Ngoài những phim khai thác đề tài chiến tranh như Hà Nội, mùa đông năm 1946 (1997) của Đặng Nhật Minh, Ngã ba Đồng Lộc (1997) của Lưu Trọng Ninh, Đời cát (1999) của Nguyễn Thanh Vân, Ai xuôi Vạn Lý (1996) của Lê Hoàng... các nhà làm phim đã hướng tới những đề tài đương đại: Vương Đức với Những người thợ xẻ (1998), Nhuệ Giang với Thung lũng hoang vắng (2000), Đỗ Minh Tuấn với Vua bãi rác (2002)...
Năm 2000, Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương được tổ chức ở Hà Nội. Điện ảnh Việt Nam đã giành được nhiều giải quan trọng: Giải Phim hay nhất cho Đời cát của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, hai diễn viên Mai Hoa và Hồng Ánh trong Đời cát đoạt hai giải dành cho nữ diễn viên chính và nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Trước đó, năm 1999, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai của Trần Văn Thủy đoạt phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan.
Mấy năm gần đây, một số phim điện ảnh nước ta, nhất là ở phía Nam đi theo xu hướng tâm lý xã hội - thị trường, phần lớn các phim do khu vực ngoài nhà nước sản xuất, kinh doanh như Đất rừng phương Nam, Bố Già, Nhà bà Nữ, Mai của Đạo diễn kiêm Nhà sản xuất Trấn Thành đạt doanh thu mỗi phim từ 300 tỷ đồng đến 600 tỷ đồng. Tiếp đó là các phim Nụ hôn bạc tỉ của Thu Trang; Đèn âm hồn của youtuber Hoàng Nam; các phim khác: Lật mặt 6: Tấm vé định mệnh, Siêu lừa gặp siêu lầy, Hai Phượng, Cua lại vợ bầu, Mắt biếc đạt doanh thu mỗi phim từ 180 tỷ đồng đến 300 tỷ đồng… Một số phim về đề tài chiến tranh cách mạng cũng thu hút đông đảo lượng người xem như Đào, phở và piano, Địa đạo - Mặt trời trong bóng tối…
2.5. Âm nhạc
Sau năm 1975, nền tân nhạc Việt Nam có nhiều thay đổi. Để xây dựng một chế độ mới, lãnh đạo đất nước đã tiến hành cuộc cách mạng sâu rộng về văn hóa, tư tưởng, đấu tranh chống tàn dư sản phẩm văn hóa của chế độ cũ. Thời kỳ đầu, các dòng nhạc “vàng” bị cấm hoặc hạn chế, các ca sĩ nhạc vàng được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống (nhạc đỏ). Một số văn nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ, ca sĩ ra nước ngoài định cư. Đề tài sáng tác nổi trội trong giai đoạn này là ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương, chiến tranh cách mạng(10).
Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trần Tiến chịu ảnh hưởng của phong trào du ca trước năm 1975 đã có những sáng tác mới lạ thời bấy giờ được công chúng yêu mến: Mặt Trời bé con, Tùy hứng lý qua cầu, Tạm biệt chim én,... Các ca sĩ thành danh như: Cẩm Vân, Bảo Yến, Nhã Phương, Quang Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển... Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ.
Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh (do Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc Tình thôi xót xa (Bảo Chấn)) khiến trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến... góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi danh.
Đã xuất hiện nhiều nhạc sĩ hòa âm phối khí như: Quốc Dũng, Bảo Chấn, Sỹ Đan, Tùng Châu, Quốc Trung, Mạnh Trinh, Trần Thanh Tùng, Quang Phúc, Đức Trí, Hoài Sa, Lê Quang, Lý Huỳnh Long... Nghề mix nhạc (DJ) cũng xuất hiện và phát triển. Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: Vọng cổ buồn (Minh Vy), Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang (Vũ Đức Sao Biển), Quê em mùa nước lũ (Tiến Luân), Duyên phận (Thái Thịnh)...
Một số ca sĩ Việt Nam mong muốn vươn ra thị trường âm nhạc khu vực và thế giới và có được những thành công nhất định: Mỹ Tâm được Đài Truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất; Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng; Sơn Tùng M-TP là nam ca sĩ tiêu biểu của dòng nhạc V-pop. Thành công với các ca khúc nhạc trẻ, đặc biệt là nhạc Hàn Quốc tác động mạnh mẽ đến giới âm nhạc và công chúng trẻ Việt Nam. Đến nay, dòng nhạc trẻ đã trở nên phổ biến, trên nền tảng trực tuyến, có một số ca khúc và ca sĩ đạt hàng chục triệu, hàng trăm triệu lượt xem (Hòa Minzy, Đen Vâu, Hoàng Thùy Linh, Sơn Tùng M-TP…).
Khác với dòng nhạc trẻ V-pop đang phát triển mạnh mẽ trong nước, dòng nhạc dân tộc truyền thống ngày càng gặp nhiều khó khăn, những người thích dòng nhạc này phần đông đã lớn tuổi, còn giới trẻ lại muốn tìm đến những sản phẩm và trào lưu âm nhạc mới...
2.6. Mỹ thuật
Nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao đẹp với những tên tuổi lớn như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tự Nghiêm… Từ năm 1975, mỹ thuật nước ta đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân, của nhóm và nhất là triển lãm mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn năm năm một lần, điều này chứng tỏ rằng khuynh hướng con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một hướng đi lên mạnh mẽ của nền mỹ thuật. Đến đây mỹ thuật đã có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội: Phố cổ (Bùi Xuân Phái), Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo (Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)…
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, là một bước tiến vượt bậc, bộc lộ tiềm năng sáng tác mới hứa hẹn bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tới - nhất là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Tiêu biểu một số tác phẩm như: Tượng Bác Hồ bên suối Lênin (Diệp Minh Châu), Mẹ chiến sĩ (Hoàng Trầm), Đảo tiền tiêu (Tạ Quang Bạo)...
Trong vòng 5 năm (1984 - 1989) đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả, trưng bày 8879 tác phẩm là cả một sự “bung ra” với nhiều đề tài đời thường. Các hoạ sĩ thâm nhập đời sống xã hội, của làng xóm, phố thị, miền núi, nông thôn tạo cảm hứng sáng tác. Bước sang thập niên 90, công cuộc đổi mới đã có kết quả rõ rệt, đất nước khởi sắc hẳn lên, mỹ thuật cũng đạt được những thành đáng tự hào. Các tượng đài, đài tưởng niệm, các công trình kiến trúc có quy mô lớn bằng chất liệu vững bền được tạo dựng, nhiều cuộc triển lãm được tổ chức, nhiều phòng tranh mọc lên, tranh ảnh, tranh tết, tranh cổ động, quảng cáo.
Trải qua hơn 65 năm xây dựng và phát triển (1957 - 2024), Hội Mỹ thuật Việt Nam đã đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại cũng như trong công cuộc phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ 123 hội viên ban đầu, đến nay Hội đã có gần 2.000 hội viên đang sinh hoạt tại hơn 70 chi hội thuộc 63 tỉnh, thành trong cả nước.
3. Những vấn đề đặt ra nhằm thúc đẩy văn học, nghệ thuật nước nhà phát triển bền vững
Cùng với những ưu điểm, thành tựu to lớn, quan trọng đạt được trong 50 năm qua, công tác lãnh đạo, quản lý và thực hành văn hóa, văn nghệ của ta mấy chục năm qua cũng bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập. Việc xây dựng thể chế, thiết chế văn hoá, văn nghệ còn chậm, thiếu đồng bộ. Đời sống văn hoá, văn nghệ còn nhiều khó khăn, thách thức. Không có nhiều tác phẩm văn nghệ đạt đỉnh cao, chưa tương xứng với tầm vóc sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc cũng như sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua. Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá, văn nghệ giai đoạn sau năm 1975 có lúc, có việc còn bị chi phối bởi tư duy chính trị “nắm vững chuyên chính vô sản” mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường, đấu tranh hai phe, đấu tranh ý thức hệ. Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ mọi hình thức bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất. Hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, văn nghệ; kìm hãm năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ và rộng ra là kìm hãm sự phát triển của đất nước. Khi bước vào thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), sự phát triển của kinh tế số, xã hội số, văn hóa số, truyền thông số, trí tuệ nhân tạo (AI)…chúng ta cũng có những lúng túng, bị động, bất cập không nhỏ.
Thực trạng hoạt động văn học, nghệ thuật nước nhà 50 năm qua và hiện nay đang đặt ra những vấn đề cần suy nghĩ cho công tác quản lý, sáng tạo, lý luận - phê bình và quảng bá. Sự chuyển giao giữa thời chiến và thời bình, giữa nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giữa bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi nhanh, đi mạnh vào nền công nghiệp 4.0 cho thấy đây là giai đoạn có những chuyển giao lịch sử quan trọng, dẫn tới sự chuyển giao thế hệ, chuyển giao thời đại và có thể có những đứt gãy về văn hóa. Văn học, nghệ thuật cũng không là ngoại lệ. Điểm lùi thời gian càng ngày càng cho chúng ta thấy những chuyển đổi lịch sử quan trọng của văn học, nghệ thuật dân tộc đã và đang diễn ra từ thời điểm quan trọng này. Để có thể thúc đẩy đời sống văn học, nghệ thuật phát triển mạnh mẽ hơn, có nhiều thành tựu hơn nữa, theo chúng tôi, cần chú ý mấy vấn đề sau:
3.1. Cần nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực, tư duy, trình độ, kỹ năng, phương pháp, phương thức công tác của bộ máy lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ các cấp, nhất là những cơ quan, đơn vị, ở những người trực tiếp quản lý, điều hành mảng công tác “rất quan trọng và đặc biệt tinh tế” này. Nếu khâu này yếu kém sẽ kéo theo sự yếu kém của cả hệ thống văn hóa, văn nghệ.
3.2. Tạo bước đột phá về nguồn nhân lực, trong đó có đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, coi trọng đội ngũ tinh hoa, chuyên nghiệp, chuyên sâu đồng thời không sao nhãng tính đại chúng của nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa, từ đó nâng cao chất lượng các sáng tác văn học, nghệ thuật hướng đến những vấn đề quan trọng, thiết thực của cuộc sống, đến nhiệm vụ xây dựng văn hóa và con người Việt Nam, cao hơn cả là nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm tự do và cảm hứng sáng tạo, nâng cao tính cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, dân chủ, nhân văn. Các cơ quan làm công tác chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ cần khích lệ, hỗ trợ, tổ chức các hoạt động bổ ích, thiết thực như các giải thưởng văn học, nghệ thuật chất lượng cao, các trại sáng tác, các quỹ hỗ trợ tài năng trẻ và quỹ hỗ trợ sáng tạo nghệ thuật, tiến hành việc tổng kết, đánh giá hoạt động văn học, nghệ thuật một cách khoa học, chuyên nghiệp, khách quan, nghiêm túc…
3.3. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng những người viết văn, sáng tạo nghệ thuật, viết lý luận, phê bình, nhất là đội ngũ trẻ; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, tư duy, trình độ, kỹ năng cho họ; đổi mới, nâng cao kỹ thuật, mỹ thuật, thi pháp; đầu tư và hỗ trợ, khen thưởng những công trình, tác phẩm chất lượng cao. Tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho những người tâm huyết theo đuổi sự nghiệp sáng tạo văn nghệ, quan tâm đến việc bồi đắp ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp cho văn nghệ sĩ.
3.4. Tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ bắt kịp nhịp sống và hơi thở của dân tộc và thời đại, hiểu và tích cực, chủ động hội nhập với bên ngoài trên tinh thần giữ vững bản sắc và nội lực dân tộc, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại, nhân văn. Tôn trọng các xu hướng tìm tòi sáng tạo, dám thể nghiệm, dám đột phá; uốn nắn các xu hướng lai căng, lệch lạc, đi ngược lại sáng tạo nghệ thuật chân chính. Tận dụng cơ hội mà cuộc chuyển đổi số mang lại cho cả xã hội, nhất là trong sáng tạo, lý luận, phê bình, quảng bá, tiếp nhận tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật. Tận dụng thế mạnh, tiềm năng, cảm hứng, sáng tạo của văn học, nghệ thuật để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; lấy thành quả, nguồn lực từ công nghiệp văn hóa đầu tư, hỗ trợ để phát triển văn học, nghệ thuật. Tạo điều kiện để các văn nghệ sĩ có điều kiện hội nhập với văn hóa, văn nghệ khu vực châu Á và thế giới. Tổ chức chọn lọc, dịch thuật, giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu của văn học, nghệ thuật Việt Nam ra thế giới và của thế giới đến với công chúng Việt Nam. Cho xuất bản các sách, báo, tạp chí bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ cần thiết để quảng bá văn học, nghệ thuật Việt Nam ra nước ngoài và văn học, nghệ thuật nước ngoài vào Việt Nam.
3.5. Làm cho văn học, nghệ thuật trở thành một trong những phương tiện, liệu pháp đoàn kết, hòa hợp dân tộc, chấn hưng văn hóa và hào khí Việt xoa dịu nỗi đau chiến tranh, nỗi đau chia cắt đất nước; góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng khả năng và sự tinh tế của mình, văn học, nghệ thuật cần tỉnh táo nhận diện, cảnh báo và đề xuất giải pháp hạn chế tác động mặt trái cơ chế thị trường, của sự tha hóa của một bộ phận trong xã hội. Hàn gắn những chia cắt, cố kết lòng người, đem lại cảm thông, sẻ chia và hiểu biết sâu sắc cho các thế hệ văn nghệ sĩ, trong đó có các văn nghệ sĩ là người Việt ở nước ngoài có mong muốn được hòa nhập vào dòng chảy văn hóa, văn nghệ trong nước. Văn học, nghệ thuật luôn đồng hành, tương hỗ cùng văn hóa, chính trị và kinh tế, cần trở thành nhân tố quan trọng trong giao lưu và hội nhập với khu vực và thế giới, trở thành một thành tố quan trọng trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển.
3.6. Quan tâm hơn nữa đến công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trên các mặt: quan điểm, tầm nhìn, tư duy; xây dựng và củng cố đội ngũ, nhất là đội ngũ trẻ giàu nhiệt huyết, bản lĩnh, trách nhiệm. Tăng cường tính chiến đấu của mảng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật, nhất là ở các cơ quan chỉ đạo, quản lý và các cơ quan văn hóa, văn nghệ chủ lực; kịp thời định hướng sáng tác, định hướng dư luận, giáo dục thẩm mỹ, làm “bà đỡ” mát tay cho các tác phẩm tốt.
Đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả với quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch trong văn nghệ, báo chí, xuất bản. Sử dụng tốt hơn các phương tiện, loại hình công nghệ hiện đại để hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo, quảng bá văn học, nghệ thuật.
PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên, 2016). Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, 2 tập, NXB. Khoa học xã hội.
2. La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương (Đồng chủ biên, 2015).
Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài - kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, NXB, Đại học Quốc gia.
3. Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2015): Lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
4. Hoàng Thị Huế (2018). Ba chiều cạnh của phê bình, NXB. Hội Nhà văn.
5. Tôn Thảo Miên (2016). Văn học Việt Nam: dấu ấn - giao lưu - tác động, NXB. Văn học.
6. Huỳnh Như Phương (2019). Giấc mơ, cảnh tượng và cái nhìn, NXB Hội Nhà văn.
7. Lý Hoài Thu (2018). Những sinh thể văn chương Việt, NXB Văn học.
8. Lê Thị Hoài Phương (2023). Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam thời kỳ đổi mới: Chính sách và thực tiễn.
9. Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2023). Hội thảo khoa học toàn quốc “Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, đổi mới: Thực trang và Định hướng phát triển”.
----------------
(1) Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần đổi mới mạnh mẽ (và có phần gai góc) trên 3 phương diện: phát hiện vấn đề, thay đổi lý thuyết và thực tiễn sáng tác, biểu hiện ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Mảnh đất tình yêu. Nguyễn Mạnh Tuấn với những vấn đề thời sự: Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Tràm; Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma; Dương Hướng với Bến không chồng; Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Muối của rừng, Con gái thủy thần, Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc... Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (lúc đầu lấy tên là Thân phận tình yêu)... Văn xuôi các dân tộc thiểu số với Đọa đày của Vi Hồng; Đàn trời, Chòm ba nhà, Ngôi nhà bên kia suối của Cao Duy Sơn...
(2) Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp; Nguyễn Xuân Khánh với Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn...
(3) Trần Đình Sử với Thi pháp học, Tự sự học và Đỗ Lai Thúy với Phê bình phân tâm học, Nhân học văn hóa.
(4) Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Phương Lựu, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Mai Quốc Liên, Mã Giang Lân, Đinh Xuân Dũng, Trần Đăng Suyền, Phan Trọng Thưởng, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Trần Khánh Thành, Bùi Việt Thắng, Trần Hinh, Phạm Quang Long, Vũ Thanh, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Bá Thành, Đỗ Lai Thúy, Lộc Phương Thủy, Trịnh Bá Đĩnh, Lê Huy Bắc, Nguyễn Thành…
(5) Trần Mạnh Tiến, Trần Huyền Sâm, Đoàn Lê Giang, Phạm Xuân Thạch, Nguyễn Hoài Nam, Phùng Gia Thế, Phùng Ngọc Kiên, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, Phan Tuấn Anh, Đoàn Minh Tâm.
(6) Những vở diễn nổi tiếng của Lưu Quang Vũ: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Sita, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Mùa hạ cuối cùng, Tôi và chúng ta, Nguồn sáng trong đời, Lời thề thứ 9, Điều không thể mất…
(7) Xuân Trình: Giấc mơ mầu hồng ngọc, Nửa ngày về chiều, Nghĩ về mình, Hai người mẹ…; Xuân Đức: Nhiệm vụ hoàn thành, Cuộc chơi, Người mất tích, Chuyến tàu tốc hành trong đêm, Cái chết chẳng dễ dàng gì…; Chu Lai: Hà Nội đêm trở gió, Ký ức lửa, Sóng muôn đời thao thức (viết chung với nhà biên kịch Chu Thơm); Võ Khắc Nghiêm: Bi kịch ngược chiều, Quy luật muôn đời, Bỉ vỏ…; Hữu Ước: Vòng xoáy; Nguyễn Huy Thiệp: Suối nhỏ êm dịu, Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình Nhà tiên tri, Hoa sen nở ngày 29 tháng 4…
(8) Đó là các nghệ sĩ Hữu Danh, Phạm Văn Quý với Dòng đời vô tận, Người thi hành án tử, Trọn đời trung hiếu với Thăng Long, Tình sử Vương triều, Chiến trường không tiếng súng, Cạm bẫy và trừng phạt, Những người con Hà Nội…; Hữu Ước với Quả báo, Khoảnh khắc mong manh, Vòng đời, Sếp rởm, Vòng vây cô đơn, Vòng xoáy, Người đàn bà uống rượu, Giấc mơ quan…; Nguyễn Hiếu với Chuyện như thế thì cần phải nói (hài kịch); Bốn trái tim đau; Trò đùa của dân, Nước mắt đàn ông; Linh hồn đông lạnh, Hàng rào giữa hai nhà, Khi giàn mùng tơi gẫy rập, Chu Văn An - Người thầy của muôn đời, Kiều...; Nguyễn Quang Vinh với Hồ Chí Minh, hồi ức màu đỏ, Chuyện tình bên dòng sông, Vú cát, Mắt phố...; Nguyễn Thế Kỷ với Chuyện tình Khau Vai, Mai Hắc Đế, Hừng Đông, Thầy Ba Đợi, Hoa lửa Truông Bồn, Huyền Thoại Gò Rồng Ấp, Ngàn năm mây trắng, Nợ nước non (5 tập).
(9) Năm 1992, 2 bộ phim Pháp thực hiện ở VN: Người tình (L'Amant), Đạo diễn Jean-Jacques Annaud dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras với các diễn viên Pháp Jane March và diễn viên Hồng Kông Lương Gia Huy. Phim Đông Dương (Indochine), đạo diễn Régis Wargnier và hai ngôi sao Catherine Deneuve, Vincent Perez và diễn viên người Pháp gốc Việt Phạm Linh. Đông Dương được trao giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1992.
Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp nhà nước được Chính phủ phê duyệt và bước đầu triển khai. Năm 1985, đạo diễn Hồ Quang Minh từ Thụy Sĩ về nước thực hiện bộ phim Con thú tật nguyền (Hãng phim Giải Phóng) và Trang giấy trắng (1991), Bụi hồng (1996)…
Năm 1993, đạo diễn trẻ người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim đầu tay Mùi đu đủ xanh (L'Odeur de la papaye verte) tại Pháp. Mùi đu đủ xanh giành được giải Trẻ và giải Camera Vàng trong Liên hoan phim Cannes năm đó. Sang năm 1994, phim được đề cử tranh giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất và giành được giải César cho tác phẩm đầu tay.
Năm 1995, Trần Anh Hùng trở về Việt Nam làm phim Xích lô (Cyclo). Phim đã giành được giải Sư tử Vàng và giải FIPRESCI tại Liên hoan phim Venezia năm 1995. Năm 1999, Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim thứ ba Mùa hè chiều thẳng đứng (À la verticale de l'été) với sự tham gia của Lê Khanh, Như Quỳnh, Trần Quang Hải, Lê Tuấn Anh...
Sang thập niên 2000, làn sóng các đạo diễn Việt kiều về nước làm phim trở nên mạnh mẽ. Như Hồ Quang Minh với Thời xa vắng (2004), Việt Linh với Mê Thảo - Thời vang bóng (2003), Nguyễn Võ Nghiêm Minh với Mùa len trâu (2004), Đoàn Minh Phượng với Hạt mưa rơi bao lâu (2005), Áo lụa Hà Đông của Lưu Huỳnh (2006). Dòng máu anh hùng của Charlie Nguyễn (2007).
(10) Viếng lăng Bác, Miền Nam Nhớ mãi ơn Người, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Đảng đã cho ta một mùa xuân, Dáng đứng Bến Tre; Tổ quốc yêu thương, Quê hương, Đất nước lời ru; Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh, Huyền thoại Mẹ, Bài ca không quên, Thuyền và Biển, Gửi em chiếc nón bài thơ, Giai điệu Tổ quốc, Tình ca Tây Nguyên; ca ngợi các phong trào lao động tập thể, thanh niên tình nguyện: Em ở nông trường anh ra biên giới, Huyền thoại Hồ Núi Cốc, Trị An âm vang mùa xuân, Tàu anh qua núi, Đêm thành phố đầy sao, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Mùa xuân từ những giếng dầu, Ơi cuộc sống mến thương, Bài ca xây dựng, Tình ca người thợ mỏ, Tình ca Vũng Tàu… Các nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn này là: Chu Minh, Phạm Tuyên, Thuận Yến, Diệp Minh Tuyền, Hoàng Vân, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Thế Hiển, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Hiên, An Thuyên, Phó Đức Phương, Phong Nhã, Trần Tiến, Nguyễn Ngọc Thiện...
Nguồn: