TIN TỨC

Viết để xương máu đồng đội không bị lãng quên

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-04-13 19:33:00
mail facebook google pos stwis
1659 lượt xem


Các tướng lĩnh dự Tọa đàm về tác phẩm của Đại tá nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Ảnh: Nguyên Hùng.

 

Như tin đã đưa, vào sáng 12/4/2024, Hội Nhà văn TPHCM vừa tổ chức Tọa đàm về tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Hồng. Văn chương TP. Hồ Chí Minh sẽ chọn đăng một số tham luận được viết cho sự kiện này. Sau đây là bài viết của nhà văn Trầm Hương về tiểu thuyết "Pailin thời máu lửa".

TRẦM HƯƠNG

Trong một thời gian dài, vì những vi tế của thời cuộc, cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc ít được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông. Tuy vậy, trong tâm thức những người lớn lên sau chiến tranh vẫn in sâu những mất mát, đau thương cuộc chiến này. Vết thương hai cuộc kháng chiến chưa lành, còn hằn dấu trên quê hương những hố bom sâu, nước mắt những người mẹ khóc con ngã xuống ở mọi miền đất nước chưa kịp khô, đất nước lại tứ bề thọ địch. Nhiều người anh, người chị, người bạn của tôi lại viết thư bằng máu ra đi. Nhiều người không về, thân xác gởi lại chiến trường K hay biên cương phía Bắc. Một số trở về trong hình hài xơ xác vì sốt rét, trong tang thương khi mất đi một phần thân thể... Tôi nhớ những năm 1980, học Đại học Cần Thơ, thi thoảng trên phố chứng kiến những chiếc xe chở thương binh trở về quân y viện 108, tim tôi thắt lại trước những thương binh chống nạng với những cánh tay, chân cụt gõ những âm thanh khô khốc, nhức nhối xuống mặt đường... Những hình ảnh, âm thanh ấy cho đến giờ vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Lúc ấy, cuộc sống dù còn nhiều khó khăn do cơ chế quan liêu bao cấp trói buộc và bị cấm vận nhưng tôi vẫn cảm nhận mình thật may mắn khi được ngồi trên giảng đường đại học, trong khi nhiều anh chị phải ra mặt trận, đương đầu với gian khổ, bom đạn, mất mát.

Dù muốn hay không, những tác phẩm viết về chiến tranh biên giới vẫn lần lượt ra đời. Người viết là thế hệ những nhà văn đã dày dặn trận mạc, hết trải nghiệm hai cuộc trường chinh giữ nước giờ lại có mặt ở chiến trường mới với sứ mạng cao cả của đoàn quân tình nguyện giúp người dân Campuchia thoát họa diệt chủng hay trấn thủ bảo vệ biên cương phía Bắc, thế hệ lính mới hay những người lớn lên sau chiến tranh chứng kiến và cảm nhận những hy sinh mất mát từ người thân, bè bạn của mình. Làm sao không viết khi có quá nhiều những người con gái, con trai trẻ măng bị bứt lìa khỏi quê hương, nằm lại vĩnh viễn trên đất bạn. Làm sao không viết khi mới có mấy năm, xương máu bạn bè tôi dường như không được nhắc đến... Trong âm thầm, dòng văn học về chiến tranh biên giới vẫn âm thầm chảy trong lòng người. Nỗi đau bị dồn ứ và khi bộc lộ trong tác phẩm, nỗi đau bộc phát, nhân lên gấp nhiều lần khi được đọc. "Pailin thời máu lửa" là một tác phẩm văn học ra đời trong dòng chảy thầm lặng mà dữ dội ấy. Phải hơn 20 năm, sau ngày bộ đội Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, quyển sách mới được viết xong và gởi đến đọc giả...

Đại tá nhà văn Nguyên Văn Hồng, người con trai Hương Sơn, Hà Tĩnh khoác áo lính, vào chiến trường miền Nam chiến đấu từ năm 1965. 10 năm vùng vẫy ở chiến trường Quân khu V ác liệt, bàn chân người lính di chuyển dần về phương Nam. Ông là một trong những chỉ huy trung đoàn bộ binh, sớm có mặt trong haiu cánh quân trực tiếp giải phóng thành phố Vũng Tàu. Ông là nhân chứng vừa là người viết nên lịch sử bi tráng ngày 30 tháng 4 năm 1975: "Có ai biết được rằng, trong giờ phút cả nước đang hòa chung niềm vui khi thành phố Sài Gòn - Gia Định đã được giải phóng, thì tại khách sạn Palace, thành phố biển Vũng tàu đang diễn ra trận đánh đẫm máu giữa một lực lượng của tiểu đoàn 6 Trung đoàn bộ binh 12 với mọt nhóm tàn binh sỹ quan quân đội Sài Gòn cố thủ trong khách sạn, chống tar3 đến cùng. Đây là trận đánh cuối cùng trên hướng Đông Nam của chiến dịch sau 12 giờ trưa nhga2y 30-4-1975 đã cướp đi sinh mạng của 17 chiến sỹ Quân giải phóng và 2 thanh niên địa phương".

10 năm khoác áo lính, mãi đến tháng 11 năm 1975, ông mới được hưởng kỳ nghỉ phép đầu tiên của đời lính. Lúc đó, con người nhà văn đã hình thành, nung nấu trong ông - một thiếu tá, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh 2: "Trên đường về quê, tôi đã có dịp hồi tưởng lại những chặng đường chiến đấu đã qua trên dải đất nóng bỏng của chiến trường khu 5 trong những năm dài chống Mỹ, đã có biết bao đồng chí, đồng đội tôi đã ngã xuống, không được hưởng ngày vui trọn vẹn như tôi hôm nay. Qua chiếc Radio Cassete, tôi nghe đi nghe lại bài hát "Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh" mà rạo rực trong lòng..."

Hòa bình, về thăm quê, chưa kịp cưới, nghĩ là có thể đã cởi áo lính để sống đời thái bình, kể chuyện "Nguyên phong" nhưng đất nước chua yên, ông lại nhiệm vụ truy quét Fulro, lại ngược ra phía Bắc, rồi năm 1982, trở thành Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 309 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Giới thiệu 3 tập sách hàng ngàn trang của ông, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã nhận định thật xác thực:  "Tác phẩm của Đại tá – Nhà văn Nguyễn Văn Hồng trung thực và sống động bởi các sự kiện trong tác phẩm mà chính tác giả là người trong cuộc và cũng là nhân vật trong các câu chuyện. Vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm Nguyễn Văn Hồng rừng rực không khí mặt trận, chân thực đến trần trụi và khát khao sống, cháy bỏng lòng yêu nước của người lính cầm súng chiến đấu"

Tôi tâm đắc với nhận định ấy. Nhưng khi đọc "Pailin thời máu lửa", trong tôi tràn ngập cảm giác biết ơn ông. Vậy là từ cảm xúc "rạo rực" viết nên cái gì đó trên đường về quê hương sau ngày hòa bình, ông đã sống, chiến đấu, nung nấu để viết ra những gì được rút ra từ máu và nước mắt của ông và đồng đội, chiến sĩ trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Mãi đến năm 2000 ông mới cho ra hồi ức "Những năm tháng không quên". Và tiếp theo là những tiểu thuyết, tập truyện ký, bút ký...; ông kiên trì, bền bỉ viết. Đó là cách người lính già Nguyễn Văn Hồng kể chuyện "Nguyên Phong". Chuyện "Nguyên Phong" kể mãi vẫn không hết nhưng chuyện gây ám ảnh dữ dội trong tôi là sức công phá của mìn. Số thương binh Việt Nam tăng bất thường cũng chính vì thứ vũ khí hủy diệt tàn độc và nham hiểm ấy: "Phía trước, tổ trinh sát vẫn kiên trì, lặng lẽ làm cái việc nguy hiểm, có thể tan xác sau một tiếng nổ, nhưng vẫn phải làm là mở một lối đi từ dưới chân núi lên đỉnh, chỉ rộng nửa mét thôi mà từ sáng đến giữa trưa mới lên  đến nơi. Đồng thời, lần này các anh lại một lần nữa đi tìm tiểu đội trưởng trinh sát Mai, hy sinh lần trước, có thể hài cốt đang ở đâu đó tại khu Mỏ Vẹt... Dọc đường, cơ man nào là mìn. Những trái mìn KP2, K58 màu xanh "ốc bươu" bị trinh sát vặn cổ, vứt rải rác hai bên lối đi. Vì sao gọi là K58 và KP2 (?). Nhiều người có đầu óc suy luận cho rằng: thời điểm người ta sản xuất loại mìn K58 (có thể từ con số 5.8), dân số Campuchia có 5 triệu tám trăm ngàn người, Pôn Pốt tuyên bố sẽ đánh Việt Nam đến người Campuchia cuối cùng. Còn KP2 có anh lại nói: sau khi "diệt chủng" thành công, Khơ me Đỏ chỉ cần 2 triệu người "trong sạch" để đi lên Chủ nghĩa xã hội... Có thể lắm. Ngoài những suy luận đó thì trời mới biết được cái nhãn mác của những "trái nổ giết người" kia chúng mang ý nghĩa gì..."

Nhưng ở chiến trường K nào đâu chỉ có KP2, K58 mà còn có mìn chống gỡ giấu trong "điều bí mật của cái công nghệ giết người xấu xa và thâm độc của kẻ thù"; mìn nhảy, mìn đạp nổ... Những loại  mìn chỉ làm mất một chân, có loại mất hai chân, có loại làm tan xác... Mìn địch gài khắp nơi, ở những nơi không ai ngờ đến. Và toàn bộ "Pailin thời máu lửa" mìn hiện hữu khắp các trang viết: "Ngô Xuân Mạnh, Trung đoàn trưởng còn nhớ, khi đặt chân lên mặt tra75n này, bốn bề đều là địch, đi đâu cũng gặp chúng. sáng dậy, xuống suối lấy nước, anh nuôi loáng thoáng thấy mấy tên du kích áo đen vút qua trước mặt như những bóng ma, biến vào vườn cà phê mất hút, khi xuống bờ suối thì đạp phải mìn. Dọc các trục đường trong khu đổ nát của thị trấn, đâu đâu cũng có mìn: dưới gốc cây, bên lu nước, cạnh nhà vệ sinh... Đúng như Trần Duy Chiến đã viết trong cuốn nhật ký: "Mỗi chiếc chân đi gập ghềnh chiếc bẫy/ Mìn nổ vang rền thịt nát xương bay..."

Chỉ có người trong cuộc mới đủ sức miêu tả một người lính dính mìn làm tan nát lòng người đọc: "Chiến sĩ Nguyễn Văn Thạnh đang loay hoay chọn một vị trì để làm công sự bên một mô đất, cạnh gốc cà phê thì đạp phải trái mìn KP2. Cả cái thân hình gần 70kg đổ ụp xuống như câyu chuối bị phạt ngang, máu tươi tuôn ra thành từng vũng nhuộm đỏ một khoảnh đất, một chân lìa khỏi gối, chân kia lủng lẵng nhờ một mảng da. Đôi chân vạn dặm đã đi từ mặt trận Đông bắc sang vùng đất tận cùng này hàng ngàn cây số, qua nhiều phum Sok, bản làng, vượt qua bao suối sâu, đèo cao dốc đứng truy kích địch tháo chạy "có cờ". Thế mà nay Thạnh phải để lại đôi chân ấy dưới lớp đất đỏ Pailin".

Không chỉ thân xác mà bao đôi chân đã gởi lại đất bạn, Những quả mìn đã cướo đi bao cuộc đời, bao khát vọng, ước mơ những người tuổi trẻ, như nỗi đau Tống Xuân Lai diễn ra trong tích tắc, sau khi anh cố ghi lại vẻ hùng dũng của khẩu DKZ75 trên cao điểm 321: "Bỗng một tiếng nổ kinh hoàng phát ra dưới chân, đất đá và lho1i bụi đùn lên như chiếc phễu lật ngược, khiến Lai đổ vật xuống trước khẩu ĐKZ75, máu phun ra ướt hết hai ống quần. Một chân bị tiện đứt đến đầu gối, ném ra xa mấy mét... Đột ngột quá, Lai không kịp la lên một tiếng, nằ ngất lịm. Mấy cậu pháo thủ chạy tới, tập trung tất cả bông băng để bịt dòng máu tươi đang phun ra xối xả trên đôi chân của Phó tham mưu trưởng, Anh được đưa ngay về trạm xá Trung đoàn 3 tại trung tâm thị trấn Pailin. Cái nghề "phó nháy" của Tống Xuân Lai phải "giải nghệ" từ hôm đó...". 

Là người chỉ huy, ông có cái nhìn thật thấu đáo gian khổ của người lính: "Tiểu đội Chiến trùm áo mưa, mỗi người dựa vào một gốc cây hay ụ mối giữa chốn rừng sâu. Chiếc áo mưa rách nát, nước len lỏi vào lưng, vào ngực, xuống rốn ướt hai ống quần, chân tay tê cóng, nhức buốt, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Cả tiểu đội cứ đứng thế, chống báng súng xuống đất, đưa tay vuốt mặt. Lũ vắt rừng từ dưới lớp lá mục, bắt được hơi người tranh nhau đi tìm mục tiêu để tấn công. Những con vắt màu vàng sẫm thấn công phía dưới, những chú vắt lá màu xanh từ những bụi cây hai bên đường nhanh chân bám lên ba lô, lên áo mưa đột nhập vào người tìm kiếm những chỗ kín, tấn công phía trên. Khi cái bụng đã căng đầy máu, chúng mổ miệng tự rơi xuống đất, để lại những dòng máu tươi trên người, chảy mãi không thôi. Máu của người lính hòa vào nước mưa, xuống sông suối, thấm vào đất, tưới cho cây..."

Là người chỉ huy, ông có cái nhìn thấu đáo về những chiến sĩ của mình. Ông yêu chiến sĩ và nhìn ra sự hồn nhiên, phẩm chất cao quý những chiến sĩ của mình, bao dung cả tin, yếu mềm nhưng kiên quyết trước yếu hèn, phản bội. Ông nhìn thấy mình trong hình ảnh những chiến sĩ trẻ hôm nay. Ông dành cho Trần Duy Chiến một tình cảm đặc biệt: "Mình thương mẹ mình lắm! Mang tiếng là anh Hai nhưng mình chưa lo được gì cho mẹ và mấy đứa em. Lúc nhỏ nghịch ngợm, làm khổ mẹ đủ điều, lớn lên vừa cảm nhận được chút trách nhiệm  của đứa con trai thì phải cầm súng ra đi!...".

Những trang viết về Pailin ác liệt, mục tiêu trên mặt trận phía Tây mà địch hướng tới chợt trở nên thật lắng đọng, mềm mại khi ông chạm đến tình mẫu tử thiêng liêng, mối giao cảm của người con trai và người mẹ trong những thời khắc sinh tử: "...Tiểu đội của Chiến mỗi người chiếm cứ một gốc cây và ngồi đó cho hết cái đêm dài lạnh lẽo của vùng biên giới Pailin để canh chừng chiếc xe và một liệt sĩ. Mưa đêm rắc trên tán lá cây rơi xuống ướt áo. Chiến ngồi đó nhìn vào bóng đêm, lòng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ các em... Mẹ ơi! Đêm nay con đang ngồi dưới gốc cây lạnh giá trước những họng súng của kẻ thù. Mẹ có biết không, con trai của mẹ..."

Những chàng trai được gởi đến chiến trường K năm ấy thật đẹp đẽ, thật đáng yêu. Nhưng chiến tranh cướp đi những con người ưu nhất, thật giản dị để hiểu vì những con người ưu tú ấy luôn giành phần khó về mình, sẵn sàng lao vào nơi ác liệt nhất. Nhưng ở Pailin, sự khốc liệt còn mang một dáng nét rất riêng, như lý giải của Chiến: "Tại sao những ai được cho là dũng cảm, chịu thương, chịu khó phải "ra đi" sớm thế. Thường là vậy, nhưng có lúc cũng không phải vậyz. Những nơi Chiến từng đi qua, được chứng kiến cái chết đến với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, đủ mọi lý do: chết đuối trong mùa mưa, chết khát mùa nắng, chết vì sốt rét ác tính, vì bị rắn cắn, vì ăn phải nấm độc. Nhưng nhiều hơn cả là chết vì mìn vì cạm bẫy của giặc... Thần chết thập thò, ẩn hiện mọi lúc mọi nơi trên cái mặt trận đáng ghét này..."

Những người lính cũng là xương thịt nên mức chịu đựng cũng có giới hạn. Sau những trăn trở, Chiến xác định: "Đời thằng lính chiến không thể dựa vào những lý do mơ hồ để tiến hay lùi. Theo Chiến thì còn sống còn chiến đấu, chết thì về với đất, đố ai trốn được cái chết. Tự dưng sao hôm nay Chiến thấy mình vững vàng đến thế, xem thường cái chết đến thế, cậu mở ba lô, lấy cuốn nhật ký ra ghi nguồn cảm hứng này...  "

Và đúng như dự cảm, Trần Duy Chiến - chàng trai khao khát yêu thương, thích làm thơ trong mọi hoàn cảnh, nâng niu từng con chim non mất mẹ, chắt chiu từng giọt nước cho đồng đội, luôn có mặt ở nơi đầu ngọn sóng đã rơi vào ổ phục kích của địch, hy sinh cùng tiểu đội của mình, trong trận truy kích địch. Những người lính như Chiến quá đẹp. Vì quá đẹp mà khi anh ngã xuống người đọc càng xót xa. Trong vai trò Sư trưởng Sư đoàn 309 và vai trò một nhà văn, Đại tá Nguyễn Văn Hồng đã khẳng định một điều thiêng liêng qua hình ảnh liệt sĩ, người anh hùng Trần Duy Chiến:  Trong cuộc chiến biên giới Tây Nam, có một thế hệ thanh niên Việt Nam vì nghĩa vụ quốc tế, vì sự hồi sinh của dân tộc Campuchia đã ngã xuống ở tuổi đôi mươi căng tràn nhựa sống. Thật cảm động để cảm nhận điều thiêng liêng ấy qua lá thư Trần Duy Chiến gởi về cho mẹ:"Con đứng ở đây tuy xa quê mình hàng ngàn cây số, tuy ở nơi tận cùng của đất nước bạn, chúng con xác định rằng: chiến đấu với kẻ thù ở đây là để bảo vệ tổ quốc mình mẹ ạ".

 Với góc nhìn nhà quân sự, sư trưởng trả lời chắc nịch cho những câu hỏi hoài nghi, phủ nhận của những góc nhìn: "Nếu năm 1979 quân tình nguyện Việt Nam không cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, rồi đẩy bọn chúng lên vùng biên giới này thì rất có thể chúng đã cận kề vùng ven Sài Gòn. Không một ai có lương tâm có thể quên được cái thảm cảnh người dân Việt Nam bị thảm sát dọc biên giới năm 1977...".

Giá trị cốt lỏi của quyển tiểu thuyết chính là sự khẳng định này. Nhưng "Pailin thời máu lửa" còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn. Tác giả còn đưa ra một một trận chiến khác ngay trong lòng đoàn quân tình nguyện. Đó là sự bỉ ổi của kẻ muốn mình nổi lên bằng mưu đồ hạ thấp uy tín của người khác, như hành xử của Chính ủy Trương Thanh Bình với Trung đoàn trưởng Ngô Xuân Mạnh. Anh ta là người phản đối quyết liệt việc tung lực lượng ra bên ngoài truy kích địch, đánh vào hậu phương gây chia rẻ, mâu thuẩn nhằm triệt hạ vị trung đoàn trưởng có chính kiến khác mình. Hậu quả những việc làm của anh ta đã gây tổn thất xương máu cho chiến sĩ...  Tiểu thuyết còn có những trang lãng mạn về mối tình của Trung đoàn trưởng Ngô Xuân Mạnh và Nari - một phụ nữ Campuchia được ông cứu thoát khỏi bàn tay thần chết của quân Pôn Pốt - Iêng Xary. Mối tình ấy kết quả thành đứa con trai Phearat khôi ngô tuấn tú cứ thao thức đi tìm tung tích người cha của mình. Nari - mẹ anh ngã xuống trong một trận quân Pôn pốt từ Pailin tràn xuống giết hại đồng bào...

Mở đầu "Pailin thời máu lửa" là cảnh Phearat lái chiếc Toyota Camry từ Bát Tam Băng vượt hàng trăm cây số, tiến vào thành phố Ph' Nôm Pênl  đi tìm một người cựu binh Việt tên Nguyễn Mộng Hùng để nhờ ông tìm tung tích cha mình - người 30 năm về trước chỉ huy một trung đoàn chiến đấu bảo vệ Pailin, một thị trấn phía tây thị xã Bát Tam Băng... Từ khi chào đời, Phearat chưa từng biết mặt cha, còn mẹ anh đã qua đời...". Mở đầu tiểu thuyết như một truyện phim. Cách kết cấu tiều thuyết giống như một kịch bản phim, với nhiều cảnh tái hiện, lồng ghép quá khứ và hiện tại... Đôi lúc, nhà văn dùng cả ống kính điện ảnh để quan sát những vi tế ngóc ngách đời sống riêng tư của đối tượng quan sát...

Bằng cách ấy, về hình thức, phân đoạn quyển sách nếu được xử lý nhuần nhuyễn hơn, có lẽ tiểu thuyết sẽ tăng tính hấp dẫn điện ảnh và khúc chiếc hơn. Diễn biến tâm lý nhân vật quá nhanh, đúng như chất lính khiến người đọc có chút ngỡ ngàng, hối tiếc. Cách dùng từ vài chỗ chưa thích hợp. Không sao, vì ông là người lính mà. Tuy vậy, khép lại quyển sách, tôi nhận ra "Pailin thời máu lửa" quá sống động. Nếu được đầu tư một kịch bản phim truyện, tôi nghĩ đây là một tiểu thuyết đầy chất liệu phong phú, sinh động để chuyển thể làm phim...

Với hàng chục tập sách kết tinh hàng ngàn trang, người lính già Nguyễn Văn Hồng đã và đang kể chuyện "Nguyên phong" thời hiện đại. Ông đã sống một cuộc đời đáng sống, để lại dấu ấn rực rỡ cả binh nghiệp và văn nghiệp. Và hơn tất cả, người thế hệ sau thấu hiểu tấm lòng ông. Ông bước vào trận chiến chữ nghĩa vì nỗi thôi thúc mãnh liệt: Viết để xương máu người nằm xuống không bị lãng quên.

T.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm