TIN TỨC

Viết để xương máu đồng đội không bị lãng quên

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-04-13 19:33:00
mail facebook google pos stwis
1396 lượt xem


Các tướng lĩnh dự Tọa đàm về tác phẩm của Đại tá nhà văn Nguyễn Văn Hồng
Ảnh: Nguyên Hùng.

 

Như tin đã đưa, vào sáng 12/4/2024, Hội Nhà văn TPHCM vừa tổ chức Tọa đàm về tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Hồng. Văn chương TP. Hồ Chí Minh sẽ chọn đăng một số tham luận được viết cho sự kiện này. Sau đây là bài viết của nhà văn Trầm Hương về tiểu thuyết "Pailin thời máu lửa".

TRẦM HƯƠNG

Trong một thời gian dài, vì những vi tế của thời cuộc, cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc ít được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông. Tuy vậy, trong tâm thức những người lớn lên sau chiến tranh vẫn in sâu những mất mát, đau thương cuộc chiến này. Vết thương hai cuộc kháng chiến chưa lành, còn hằn dấu trên quê hương những hố bom sâu, nước mắt những người mẹ khóc con ngã xuống ở mọi miền đất nước chưa kịp khô, đất nước lại tứ bề thọ địch. Nhiều người anh, người chị, người bạn của tôi lại viết thư bằng máu ra đi. Nhiều người không về, thân xác gởi lại chiến trường K hay biên cương phía Bắc. Một số trở về trong hình hài xơ xác vì sốt rét, trong tang thương khi mất đi một phần thân thể... Tôi nhớ những năm 1980, học Đại học Cần Thơ, thi thoảng trên phố chứng kiến những chiếc xe chở thương binh trở về quân y viện 108, tim tôi thắt lại trước những thương binh chống nạng với những cánh tay, chân cụt gõ những âm thanh khô khốc, nhức nhối xuống mặt đường... Những hình ảnh, âm thanh ấy cho đến giờ vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Lúc ấy, cuộc sống dù còn nhiều khó khăn do cơ chế quan liêu bao cấp trói buộc và bị cấm vận nhưng tôi vẫn cảm nhận mình thật may mắn khi được ngồi trên giảng đường đại học, trong khi nhiều anh chị phải ra mặt trận, đương đầu với gian khổ, bom đạn, mất mát.

Dù muốn hay không, những tác phẩm viết về chiến tranh biên giới vẫn lần lượt ra đời. Người viết là thế hệ những nhà văn đã dày dặn trận mạc, hết trải nghiệm hai cuộc trường chinh giữ nước giờ lại có mặt ở chiến trường mới với sứ mạng cao cả của đoàn quân tình nguyện giúp người dân Campuchia thoát họa diệt chủng hay trấn thủ bảo vệ biên cương phía Bắc, thế hệ lính mới hay những người lớn lên sau chiến tranh chứng kiến và cảm nhận những hy sinh mất mát từ người thân, bè bạn của mình. Làm sao không viết khi có quá nhiều những người con gái, con trai trẻ măng bị bứt lìa khỏi quê hương, nằm lại vĩnh viễn trên đất bạn. Làm sao không viết khi mới có mấy năm, xương máu bạn bè tôi dường như không được nhắc đến... Trong âm thầm, dòng văn học về chiến tranh biên giới vẫn âm thầm chảy trong lòng người. Nỗi đau bị dồn ứ và khi bộc lộ trong tác phẩm, nỗi đau bộc phát, nhân lên gấp nhiều lần khi được đọc. "Pailin thời máu lửa" là một tác phẩm văn học ra đời trong dòng chảy thầm lặng mà dữ dội ấy. Phải hơn 20 năm, sau ngày bộ đội Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, quyển sách mới được viết xong và gởi đến đọc giả...

Đại tá nhà văn Nguyên Văn Hồng, người con trai Hương Sơn, Hà Tĩnh khoác áo lính, vào chiến trường miền Nam chiến đấu từ năm 1965. 10 năm vùng vẫy ở chiến trường Quân khu V ác liệt, bàn chân người lính di chuyển dần về phương Nam. Ông là một trong những chỉ huy trung đoàn bộ binh, sớm có mặt trong haiu cánh quân trực tiếp giải phóng thành phố Vũng Tàu. Ông là nhân chứng vừa là người viết nên lịch sử bi tráng ngày 30 tháng 4 năm 1975: "Có ai biết được rằng, trong giờ phút cả nước đang hòa chung niềm vui khi thành phố Sài Gòn - Gia Định đã được giải phóng, thì tại khách sạn Palace, thành phố biển Vũng tàu đang diễn ra trận đánh đẫm máu giữa một lực lượng của tiểu đoàn 6 Trung đoàn bộ binh 12 với mọt nhóm tàn binh sỹ quan quân đội Sài Gòn cố thủ trong khách sạn, chống tar3 đến cùng. Đây là trận đánh cuối cùng trên hướng Đông Nam của chiến dịch sau 12 giờ trưa nhga2y 30-4-1975 đã cướp đi sinh mạng của 17 chiến sỹ Quân giải phóng và 2 thanh niên địa phương".

10 năm khoác áo lính, mãi đến tháng 11 năm 1975, ông mới được hưởng kỳ nghỉ phép đầu tiên của đời lính. Lúc đó, con người nhà văn đã hình thành, nung nấu trong ông - một thiếu tá, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh 2: "Trên đường về quê, tôi đã có dịp hồi tưởng lại những chặng đường chiến đấu đã qua trên dải đất nóng bỏng của chiến trường khu 5 trong những năm dài chống Mỹ, đã có biết bao đồng chí, đồng đội tôi đã ngã xuống, không được hưởng ngày vui trọn vẹn như tôi hôm nay. Qua chiếc Radio Cassete, tôi nghe đi nghe lại bài hát "Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh" mà rạo rực trong lòng..."

Hòa bình, về thăm quê, chưa kịp cưới, nghĩ là có thể đã cởi áo lính để sống đời thái bình, kể chuyện "Nguyên phong" nhưng đất nước chua yên, ông lại nhiệm vụ truy quét Fulro, lại ngược ra phía Bắc, rồi năm 1982, trở thành Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 309 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Giới thiệu 3 tập sách hàng ngàn trang của ông, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã nhận định thật xác thực:  "Tác phẩm của Đại tá – Nhà văn Nguyễn Văn Hồng trung thực và sống động bởi các sự kiện trong tác phẩm mà chính tác giả là người trong cuộc và cũng là nhân vật trong các câu chuyện. Vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm Nguyễn Văn Hồng rừng rực không khí mặt trận, chân thực đến trần trụi và khát khao sống, cháy bỏng lòng yêu nước của người lính cầm súng chiến đấu"

Tôi tâm đắc với nhận định ấy. Nhưng khi đọc "Pailin thời máu lửa", trong tôi tràn ngập cảm giác biết ơn ông. Vậy là từ cảm xúc "rạo rực" viết nên cái gì đó trên đường về quê hương sau ngày hòa bình, ông đã sống, chiến đấu, nung nấu để viết ra những gì được rút ra từ máu và nước mắt của ông và đồng đội, chiến sĩ trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Mãi đến năm 2000 ông mới cho ra hồi ức "Những năm tháng không quên". Và tiếp theo là những tiểu thuyết, tập truyện ký, bút ký...; ông kiên trì, bền bỉ viết. Đó là cách người lính già Nguyễn Văn Hồng kể chuyện "Nguyên Phong". Chuyện "Nguyên Phong" kể mãi vẫn không hết nhưng chuyện gây ám ảnh dữ dội trong tôi là sức công phá của mìn. Số thương binh Việt Nam tăng bất thường cũng chính vì thứ vũ khí hủy diệt tàn độc và nham hiểm ấy: "Phía trước, tổ trinh sát vẫn kiên trì, lặng lẽ làm cái việc nguy hiểm, có thể tan xác sau một tiếng nổ, nhưng vẫn phải làm là mở một lối đi từ dưới chân núi lên đỉnh, chỉ rộng nửa mét thôi mà từ sáng đến giữa trưa mới lên  đến nơi. Đồng thời, lần này các anh lại một lần nữa đi tìm tiểu đội trưởng trinh sát Mai, hy sinh lần trước, có thể hài cốt đang ở đâu đó tại khu Mỏ Vẹt... Dọc đường, cơ man nào là mìn. Những trái mìn KP2, K58 màu xanh "ốc bươu" bị trinh sát vặn cổ, vứt rải rác hai bên lối đi. Vì sao gọi là K58 và KP2 (?). Nhiều người có đầu óc suy luận cho rằng: thời điểm người ta sản xuất loại mìn K58 (có thể từ con số 5.8), dân số Campuchia có 5 triệu tám trăm ngàn người, Pôn Pốt tuyên bố sẽ đánh Việt Nam đến người Campuchia cuối cùng. Còn KP2 có anh lại nói: sau khi "diệt chủng" thành công, Khơ me Đỏ chỉ cần 2 triệu người "trong sạch" để đi lên Chủ nghĩa xã hội... Có thể lắm. Ngoài những suy luận đó thì trời mới biết được cái nhãn mác của những "trái nổ giết người" kia chúng mang ý nghĩa gì..."

Nhưng ở chiến trường K nào đâu chỉ có KP2, K58 mà còn có mìn chống gỡ giấu trong "điều bí mật của cái công nghệ giết người xấu xa và thâm độc của kẻ thù"; mìn nhảy, mìn đạp nổ... Những loại  mìn chỉ làm mất một chân, có loại mất hai chân, có loại làm tan xác... Mìn địch gài khắp nơi, ở những nơi không ai ngờ đến. Và toàn bộ "Pailin thời máu lửa" mìn hiện hữu khắp các trang viết: "Ngô Xuân Mạnh, Trung đoàn trưởng còn nhớ, khi đặt chân lên mặt tra75n này, bốn bề đều là địch, đi đâu cũng gặp chúng. sáng dậy, xuống suối lấy nước, anh nuôi loáng thoáng thấy mấy tên du kích áo đen vút qua trước mặt như những bóng ma, biến vào vườn cà phê mất hút, khi xuống bờ suối thì đạp phải mìn. Dọc các trục đường trong khu đổ nát của thị trấn, đâu đâu cũng có mìn: dưới gốc cây, bên lu nước, cạnh nhà vệ sinh... Đúng như Trần Duy Chiến đã viết trong cuốn nhật ký: "Mỗi chiếc chân đi gập ghềnh chiếc bẫy/ Mìn nổ vang rền thịt nát xương bay..."

Chỉ có người trong cuộc mới đủ sức miêu tả một người lính dính mìn làm tan nát lòng người đọc: "Chiến sĩ Nguyễn Văn Thạnh đang loay hoay chọn một vị trì để làm công sự bên một mô đất, cạnh gốc cà phê thì đạp phải trái mìn KP2. Cả cái thân hình gần 70kg đổ ụp xuống như câyu chuối bị phạt ngang, máu tươi tuôn ra thành từng vũng nhuộm đỏ một khoảnh đất, một chân lìa khỏi gối, chân kia lủng lẵng nhờ một mảng da. Đôi chân vạn dặm đã đi từ mặt trận Đông bắc sang vùng đất tận cùng này hàng ngàn cây số, qua nhiều phum Sok, bản làng, vượt qua bao suối sâu, đèo cao dốc đứng truy kích địch tháo chạy "có cờ". Thế mà nay Thạnh phải để lại đôi chân ấy dưới lớp đất đỏ Pailin".

Không chỉ thân xác mà bao đôi chân đã gởi lại đất bạn, Những quả mìn đã cướo đi bao cuộc đời, bao khát vọng, ước mơ những người tuổi trẻ, như nỗi đau Tống Xuân Lai diễn ra trong tích tắc, sau khi anh cố ghi lại vẻ hùng dũng của khẩu DKZ75 trên cao điểm 321: "Bỗng một tiếng nổ kinh hoàng phát ra dưới chân, đất đá và lho1i bụi đùn lên như chiếc phễu lật ngược, khiến Lai đổ vật xuống trước khẩu ĐKZ75, máu phun ra ướt hết hai ống quần. Một chân bị tiện đứt đến đầu gối, ném ra xa mấy mét... Đột ngột quá, Lai không kịp la lên một tiếng, nằ ngất lịm. Mấy cậu pháo thủ chạy tới, tập trung tất cả bông băng để bịt dòng máu tươi đang phun ra xối xả trên đôi chân của Phó tham mưu trưởng, Anh được đưa ngay về trạm xá Trung đoàn 3 tại trung tâm thị trấn Pailin. Cái nghề "phó nháy" của Tống Xuân Lai phải "giải nghệ" từ hôm đó...". 

Là người chỉ huy, ông có cái nhìn thật thấu đáo gian khổ của người lính: "Tiểu đội Chiến trùm áo mưa, mỗi người dựa vào một gốc cây hay ụ mối giữa chốn rừng sâu. Chiếc áo mưa rách nát, nước len lỏi vào lưng, vào ngực, xuống rốn ướt hai ống quần, chân tay tê cóng, nhức buốt, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Cả tiểu đội cứ đứng thế, chống báng súng xuống đất, đưa tay vuốt mặt. Lũ vắt rừng từ dưới lớp lá mục, bắt được hơi người tranh nhau đi tìm mục tiêu để tấn công. Những con vắt màu vàng sẫm thấn công phía dưới, những chú vắt lá màu xanh từ những bụi cây hai bên đường nhanh chân bám lên ba lô, lên áo mưa đột nhập vào người tìm kiếm những chỗ kín, tấn công phía trên. Khi cái bụng đã căng đầy máu, chúng mổ miệng tự rơi xuống đất, để lại những dòng máu tươi trên người, chảy mãi không thôi. Máu của người lính hòa vào nước mưa, xuống sông suối, thấm vào đất, tưới cho cây..."

Là người chỉ huy, ông có cái nhìn thấu đáo về những chiến sĩ của mình. Ông yêu chiến sĩ và nhìn ra sự hồn nhiên, phẩm chất cao quý những chiến sĩ của mình, bao dung cả tin, yếu mềm nhưng kiên quyết trước yếu hèn, phản bội. Ông nhìn thấy mình trong hình ảnh những chiến sĩ trẻ hôm nay. Ông dành cho Trần Duy Chiến một tình cảm đặc biệt: "Mình thương mẹ mình lắm! Mang tiếng là anh Hai nhưng mình chưa lo được gì cho mẹ và mấy đứa em. Lúc nhỏ nghịch ngợm, làm khổ mẹ đủ điều, lớn lên vừa cảm nhận được chút trách nhiệm  của đứa con trai thì phải cầm súng ra đi!...".

Những trang viết về Pailin ác liệt, mục tiêu trên mặt trận phía Tây mà địch hướng tới chợt trở nên thật lắng đọng, mềm mại khi ông chạm đến tình mẫu tử thiêng liêng, mối giao cảm của người con trai và người mẹ trong những thời khắc sinh tử: "...Tiểu đội của Chiến mỗi người chiếm cứ một gốc cây và ngồi đó cho hết cái đêm dài lạnh lẽo của vùng biên giới Pailin để canh chừng chiếc xe và một liệt sĩ. Mưa đêm rắc trên tán lá cây rơi xuống ướt áo. Chiến ngồi đó nhìn vào bóng đêm, lòng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ các em... Mẹ ơi! Đêm nay con đang ngồi dưới gốc cây lạnh giá trước những họng súng của kẻ thù. Mẹ có biết không, con trai của mẹ..."

Những chàng trai được gởi đến chiến trường K năm ấy thật đẹp đẽ, thật đáng yêu. Nhưng chiến tranh cướp đi những con người ưu nhất, thật giản dị để hiểu vì những con người ưu tú ấy luôn giành phần khó về mình, sẵn sàng lao vào nơi ác liệt nhất. Nhưng ở Pailin, sự khốc liệt còn mang một dáng nét rất riêng, như lý giải của Chiến: "Tại sao những ai được cho là dũng cảm, chịu thương, chịu khó phải "ra đi" sớm thế. Thường là vậy, nhưng có lúc cũng không phải vậyz. Những nơi Chiến từng đi qua, được chứng kiến cái chết đến với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, đủ mọi lý do: chết đuối trong mùa mưa, chết khát mùa nắng, chết vì sốt rét ác tính, vì bị rắn cắn, vì ăn phải nấm độc. Nhưng nhiều hơn cả là chết vì mìn vì cạm bẫy của giặc... Thần chết thập thò, ẩn hiện mọi lúc mọi nơi trên cái mặt trận đáng ghét này..."

Những người lính cũng là xương thịt nên mức chịu đựng cũng có giới hạn. Sau những trăn trở, Chiến xác định: "Đời thằng lính chiến không thể dựa vào những lý do mơ hồ để tiến hay lùi. Theo Chiến thì còn sống còn chiến đấu, chết thì về với đất, đố ai trốn được cái chết. Tự dưng sao hôm nay Chiến thấy mình vững vàng đến thế, xem thường cái chết đến thế, cậu mở ba lô, lấy cuốn nhật ký ra ghi nguồn cảm hứng này...  "

Và đúng như dự cảm, Trần Duy Chiến - chàng trai khao khát yêu thương, thích làm thơ trong mọi hoàn cảnh, nâng niu từng con chim non mất mẹ, chắt chiu từng giọt nước cho đồng đội, luôn có mặt ở nơi đầu ngọn sóng đã rơi vào ổ phục kích của địch, hy sinh cùng tiểu đội của mình, trong trận truy kích địch. Những người lính như Chiến quá đẹp. Vì quá đẹp mà khi anh ngã xuống người đọc càng xót xa. Trong vai trò Sư trưởng Sư đoàn 309 và vai trò một nhà văn, Đại tá Nguyễn Văn Hồng đã khẳng định một điều thiêng liêng qua hình ảnh liệt sĩ, người anh hùng Trần Duy Chiến:  Trong cuộc chiến biên giới Tây Nam, có một thế hệ thanh niên Việt Nam vì nghĩa vụ quốc tế, vì sự hồi sinh của dân tộc Campuchia đã ngã xuống ở tuổi đôi mươi căng tràn nhựa sống. Thật cảm động để cảm nhận điều thiêng liêng ấy qua lá thư Trần Duy Chiến gởi về cho mẹ:"Con đứng ở đây tuy xa quê mình hàng ngàn cây số, tuy ở nơi tận cùng của đất nước bạn, chúng con xác định rằng: chiến đấu với kẻ thù ở đây là để bảo vệ tổ quốc mình mẹ ạ".

 Với góc nhìn nhà quân sự, sư trưởng trả lời chắc nịch cho những câu hỏi hoài nghi, phủ nhận của những góc nhìn: "Nếu năm 1979 quân tình nguyện Việt Nam không cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, rồi đẩy bọn chúng lên vùng biên giới này thì rất có thể chúng đã cận kề vùng ven Sài Gòn. Không một ai có lương tâm có thể quên được cái thảm cảnh người dân Việt Nam bị thảm sát dọc biên giới năm 1977...".

Giá trị cốt lỏi của quyển tiểu thuyết chính là sự khẳng định này. Nhưng "Pailin thời máu lửa" còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn. Tác giả còn đưa ra một một trận chiến khác ngay trong lòng đoàn quân tình nguyện. Đó là sự bỉ ổi của kẻ muốn mình nổi lên bằng mưu đồ hạ thấp uy tín của người khác, như hành xử của Chính ủy Trương Thanh Bình với Trung đoàn trưởng Ngô Xuân Mạnh. Anh ta là người phản đối quyết liệt việc tung lực lượng ra bên ngoài truy kích địch, đánh vào hậu phương gây chia rẻ, mâu thuẩn nhằm triệt hạ vị trung đoàn trưởng có chính kiến khác mình. Hậu quả những việc làm của anh ta đã gây tổn thất xương máu cho chiến sĩ...  Tiểu thuyết còn có những trang lãng mạn về mối tình của Trung đoàn trưởng Ngô Xuân Mạnh và Nari - một phụ nữ Campuchia được ông cứu thoát khỏi bàn tay thần chết của quân Pôn Pốt - Iêng Xary. Mối tình ấy kết quả thành đứa con trai Phearat khôi ngô tuấn tú cứ thao thức đi tìm tung tích người cha của mình. Nari - mẹ anh ngã xuống trong một trận quân Pôn pốt từ Pailin tràn xuống giết hại đồng bào...

Mở đầu "Pailin thời máu lửa" là cảnh Phearat lái chiếc Toyota Camry từ Bát Tam Băng vượt hàng trăm cây số, tiến vào thành phố Ph' Nôm Pênl  đi tìm một người cựu binh Việt tên Nguyễn Mộng Hùng để nhờ ông tìm tung tích cha mình - người 30 năm về trước chỉ huy một trung đoàn chiến đấu bảo vệ Pailin, một thị trấn phía tây thị xã Bát Tam Băng... Từ khi chào đời, Phearat chưa từng biết mặt cha, còn mẹ anh đã qua đời...". Mở đầu tiểu thuyết như một truyện phim. Cách kết cấu tiều thuyết giống như một kịch bản phim, với nhiều cảnh tái hiện, lồng ghép quá khứ và hiện tại... Đôi lúc, nhà văn dùng cả ống kính điện ảnh để quan sát những vi tế ngóc ngách đời sống riêng tư của đối tượng quan sát...

Bằng cách ấy, về hình thức, phân đoạn quyển sách nếu được xử lý nhuần nhuyễn hơn, có lẽ tiểu thuyết sẽ tăng tính hấp dẫn điện ảnh và khúc chiếc hơn. Diễn biến tâm lý nhân vật quá nhanh, đúng như chất lính khiến người đọc có chút ngỡ ngàng, hối tiếc. Cách dùng từ vài chỗ chưa thích hợp. Không sao, vì ông là người lính mà. Tuy vậy, khép lại quyển sách, tôi nhận ra "Pailin thời máu lửa" quá sống động. Nếu được đầu tư một kịch bản phim truyện, tôi nghĩ đây là một tiểu thuyết đầy chất liệu phong phú, sinh động để chuyển thể làm phim...

Với hàng chục tập sách kết tinh hàng ngàn trang, người lính già Nguyễn Văn Hồng đã và đang kể chuyện "Nguyên phong" thời hiện đại. Ông đã sống một cuộc đời đáng sống, để lại dấu ấn rực rỡ cả binh nghiệp và văn nghiệp. Và hơn tất cả, người thế hệ sau thấu hiểu tấm lòng ông. Ông bước vào trận chiến chữ nghĩa vì nỗi thôi thúc mãnh liệt: Viết để xương máu người nằm xuống không bị lãng quên.

T.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm