TIN TỨC

Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-16 10:31:26
mail facebook google pos stwis
418 lượt xem

NGUYỄN THANH MỪNG
(Đọc tập thơ “Hai vệt nắng chiều”, NXB Hội Nhà văn)

Cầm trên tay tập thơ mới của nhà thơ Xuân Trường “Hai vệt nắng chiều” (NXB Hội Nhà văn), tôi cứ bần thần về câu ca dao non cao biển rộng: “Ra đi thì sự đã liều/ Mưa mai chẳng quản, nắng chiều cũng cam”. Câu ca ấy, thiên lý lắm, diệu vợi lắm, và nó đặc biệt hun hút ở khúc ruột miền Trung, nơi hơn bảy thế kỷ trước là dặm ngàn Ô Lý trong bước vu quy của Huyền Trân công chúa, và sau đó là những thế kỷ khốc liệt, trong mỗi hạt lúa củ khoai, ngoài trầm tích của nắng lửa mưa dầu là bóng dáng những cung kiếm binh đao. Sự khốc liệt ấy như định mệnh của một vùng đất, ít nhiều len lỏi trong mỗi số phận con người, ở Xuân Trường càng rõ nét hơn, trong sự mẫn cảm của đời sống ngang dọc, và bao quát hơn, trong bi hùng của thế hệ anh. Quê hương Xuân Trường ở bên sông Vu Gia và ngoài ra, anh có những dấu chân tuổi thơ, tuổi trẻ duyên hải cao nguyên lang bạt kỳ hồ. Đọc câu thơ tưởng chừng giản dị: “Cám ơn mỳ Quảng hương vị còn ấm đến cuối tô”, tôi nửa đùa nửa thật với anh, cái sợi mì Quảng trong văn hóa lịch sử trung đại, nó vấn vít mênh mang lắm, thuở vua Lê mở cõi, địa danh “Quảng Nam thừa tuyên” kéo dài từ Hải Vân đến cả Nam Cù Mông và còn ngược lên Tây An Khê. Cái sự thơm ngon ấm áp mà anh diễn tả, nó vừa hiện thực với nhà thơ trong cơn mưa chiều cụ thể, nó vừa chứa đựng những trầm tích đất đai sông núi, triều đại, thời cuộc, nó vừa ăm ắp kỷ niệm “tôi đã ăn vụng tuổi thơ mình mà mùi thơm còn trong da thịt hôm nay!”. Đi dọc hành trình thơ Xuân Trường, ta bắt gặp rất nhiều vùng đất, chênh chao tao loạn, sum vầy tụ họp, nhưng những trong trẻo của ban mai, của tuổi thơ như ẩn nấp đâu đó lại hiện về “chấp nhận những niềm vui/ mà trời đất cho ta trong chặng cuối”. Tuổi thơ từ “Chợt con cá niên quẫy đuôi vào thơ”, đến “Nơi dế trĩu cành dâu khi nước lụt xâm xấp/ tháng mười trắng đồng Mỹ Hảo”, đến sự lầm tưởng nghi ngờ của cô bạn học qua hòn đá vu vơ ném trúng vai: “Oan và đau đã làm thành nỗi nhớ em!”. Khi cô bạn quay lại, tưởng anh là thủ phạm vì nụ cười của anh, do đó nụ cười từ nỗi oan đã biến thành niềm thơ day dứt. Nhà thơ vẫn giữ nụ cười ấy, tươi tắn đến nhức nhối, trong trẻo đến dại khờ, không thể mờ phai dù thời gian kéo dài từ tóc xanh đến tóc bạc, và nó thật dễ thương như cội rễ của ký ức, bản lai diện mục của thơ vậy! Trong dâu bể của cuộc đời, khi “nhan sắc sang sông”, có dịp gặp lại người cũ, anh may mắn được nàng “phúc thẩm” vụ án oan tuổi thơ, tình yêu đầu đời, bằng mấy từ “thật thà như rứa” rất nôm na nhưng quá chừng thần thánh! Nhà thơ dù sao cũng may mắn “trắng án” nhưng bánh xe cuộc đời đã quay bằng những quy luật riêng của nó, để lại chàng bên đường câu thơ tuyệt diệu: “Mà đổi thay có thay đổi bao giờ!”.

Bên cạnh xứ Quảng quê hương với những mặn ngọt chua cay đắp bồi trong trí tưởng, trong tình cảm, bước chân cuộc đời Xuân Trường xê dịch nhiều nơi, trong đó có những miền đất đáng nhớ như Quy Nhơn: “Nón vẫn trắng sân trường mưa con gái”; Tây Nguyên: “Gió ngang mùa khẽ gọi/ Thuở hồng hoang quay về/ Tiếng đại ngàn thổn thức/ Ôi nhạc chiều đê mê”… Như những đa tình nhà thơ, yêu hoa và yêu phụ nữ, trên rừng anh thổn thức với dã quỳ: “Em đã vàng sang ta bao nỗi nhớ không tên” , xuống biển anh hào hiệp với đỉnh Kê Gà: “Bồng bềnh em, bồng bềnh tôi/ Nước mây hai đứa một đôi bồng bềnh/ Cánh buồm trở gió chênh vênh/ Chờ em tôi cứ dần quên tuổi mình!”. Nếu nụ cười trong tuổi thơ-tình đầu của Xuân Trường là nụ cười được kết án“thật thà như rứa” thì nụ cười xế chiều của anh, có kín đáo hơn xíu “Chờ em tôi cũng dần quên tuổi mình” thế nào cũng không ngoài nhận định “thật thà như rứa!”. Tôi nhớ Raxun Gamzatop đã viết trong Daghextan của tôidẫn lời minh triết: Người đàn ông chỉ có thể quì trong hai trường hợp: để uống nước nguồn và để hái hoa”. Đặt câu này trong bối cảnh tâm hồn thơ mây trời gió nước của Xuân Trường, rẽ Đông ghé Tây, đi Bắc về Nam, qua Hạ Lào sang Phnông Pênh v.v… đều bắt gặp những khúc xạ lấp lánh, nơi thẳm sâu của người đàn ông biết bao nhiêu vực thẳm đèo cao, truông dài phá rộng, giông sớm bão chiều... Gọi tên thi sĩ Xuân Trường, tôi cảm nhận, với con người ấy, giờ đã ở độ “thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ”, chặng đường dài trong đời sống, tình bạn, tình thơ, rất đáng mến trọng. Cho nên trong thơ anh, bản ngã tâm hồn hiển lộ tung hoành trong khúc chiết, nồng nhiệt trong chân thành, bộc trực trong mặc trầm.

Trước “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường đã cho xuất bản nhiều tập thơ “Chùm thương nhớ” (1999); Tìm xưa (2000); “Không gian em (2005); Nắng trầm tư (2008); “Chiếc cằm nũng đôi” (2013). Những năm gần đây, anh đoạt nhiều giải thưởng: Giải Nhì viết về ngành cao su; Giải Nhì Thơ Haiku; Giải Tư cuộc thi thơ Nhà văn & Tác phẩm. Bên cạnh thế mạnh là những bài thơ dài, anh lắng lại trong khuôn khổ nghiêm nhặt của haiku, vẫn tạo được đầy nội lực “Mây bay đỉnh núi/ Bìm bịp kêu chiều/ Tiếng mẹ quê xa” (Thơ haiku 1); “Núi ngậm mặt trời/ Nhả ra hoàng hôn/ Vòng quay luân hồi” (Thơ haiku 2). Hơn 60 bài thơ trong “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường chia thành ba phần: Dấu chân ngày cũ, Miền xưa thương nhớ  Ngang chiều mây trắng. Nhưng đọc thơ anh, tôi vượt qua kết cấu chỉn chu mực thước ấy, để chú ý hơn vào hai bài thơ giữa tập: Yêu và Chiều xuân uống rượu một mình. Anh đã nói rất thật (và cũng rất ảo diệu): “Thôi chúng mình hãy vượt qua ngôn ngữ để yêu nhau/ biểu hiện thấu cảm bằng những gì rất thực/ bằng mắt môi- bằng va chạm châu thân/ bằng chết điếng vào nhau/ những miếng cắn thiên thần/ bằng mất hút xác ve sau ân ái/ bằng bập bùng tâm thức đến muôn sau/ một hành trình như vậy ta yêu nhau”. Con người bộc trực đến bạo liệt ấy, cũng là con người mặc trầm đến tĩnh tại: “Rót chiều đầy một ly xuân/ Nâng lên-tôi lại-ngập ngừng-mời tôi/Ngụm buồn-dâu bể đắng môi/ Ngụm vui- nắng giấu bên trời trốn mây/ Trở mình mùa hẹn gì đây/ Mà nghe gió cứ thổi ngày qua mai/ Xôn xao sợi tóc ngắn dài/ Hỏi nhau đen-trắng xuân phai bao lần/ Xuân trời quay lại thanh tân/ Xuân lòng đi mãi, rồi bâng khuâng chiều/ Tôi hỏi tôi đã bao điều/ Trả lời -một ngụm- thật nhiều có không”.

Lật câu ca dao thời mở cõi, tách riêng hai cụm từ "mưa mai" và "nắng chiều", nhận ra trong mưa mai có nắng chiều, trong nắng chiều không thiếu mưa mai, khí chất những cuộc dấn thân, trong mạch lạc chứa đựng mơ màng, trong chon von hàm ẩn thăng bằng, trong tuổi già dung lượng trẻ trung. Hình như còn nhiều điều để khám phá trong thơ Xuân Trường, ở thời đoạn mà anh từng tự nhận “bình minh và hoàng hôn chất vấn nhau”.

N.T.M

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm