TIN TỨC

‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-01-09 16:11:45
mail facebook google pos stwis
923 lượt xem

Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.

Hai tác giả Phùng Ngọc Kiên và Đoàn Ánh Dương trong buổi toạ đàm về cuốn sách “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do”

Công trình nghiên cứu nhưng viết thú vị

Về ý kiến cho rằng, câu chuyện của văn học thuộc địa giai đoạn những năm 30 của thế kỷ trước không khỏi “đã cũ” trong bối cảnh hiện tại, TS. Đoàn Ánh Dương (đồng tác giả cuốn sách) cho rằng: Thực tế không bao giờ có một đối tượng nghiên cứu cũ “đã xong xuôi”, mọi vấn đề và câu chuyện đều luôn mới nếu đặt trong cách diễn giải khác.

Một trong những độc giả đầu tiên của cuốn sách, TS. Phạm Phương Chi đánh giá: “Một công trình nghiên cứu nhưng viết thú vị kể cả lập luận, giọng điệu và sự kiện. Khi đọc, tôi cũng nhiều lần bật cười một mình, các tác giả có sự hài hước, duyên dáng, vốn rất hiếm trong các công trình khoa học, học thuật”. Chị Chi còn khẳng định: Đây là cuốn sách dành cho mọi người.

Hầu hết những người từng đọc qua “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đều bày tỏ thích thú với những câu chuyện hậu trường văn chương được kể lại trong sách. Ở đấy, chi chít những “vụ áp phe” công kích giữa các báo, các nhân vật nổi tiếng như một sự gây chú ý cho độc giả hay như chiến lược kinh doanh văn học nghệ thuật.

Ví như: “trong số Mùa xuân báo Phong Hóa vu cho Nguyễn Công Hoan đã “sưu tầm” để viết “Lá ngọc cành vàng”, giống “Nửa chừng xuân” và “Cô giáo Minh” giống hệt “Đoạn tuyệt”, nói một cách khác tức là Nguyễn Công Hoan ăn cắp văn của Nhất Linh và Khái Hưng. Nếu Phong Hóa nói đúng, thì là một cái nhục cho nhà văn Nguyễn Công Hoan. Mà trái lại, ông Hoan quả không ăn cắp văn, thì với một việc này cũng có thể tan tành hết cả công gây dựng của TLVĐ”, trích bài của tác giả Lê Cường trên Hà Nội báo (1936). Đáp lời, báo Phong Hóa thẳng thắn: “Chúng tôi không trả lời Hà Nội báo, nghĩa là ông Lê Cường, chủ hiệu thuốc lậu Hồng Khê, vì ông Lê Cường có ý ở giữa nói khích hai bên, mong đục nước để béo cò. Hành vi ấy trẻ con lắm, dùng để quảng cáo thuốc lậu tốt hơn là dùng quảng cáo văn”.

Theo TS. Nguyễn Phương Chi, những câu chuyện kiểu này không cần có hồi kết ai đúng ai sai nhưng tạo ấn tượng về một đời sống trí thức đầy sôi động, đầy hỉ nộ ái ố những năm trước cách mạng. “Việc bao gồm những câu chuyện văn chương trong một công trình học thuật khiến cho cuốn sách có giá trị như một sự giải thiêng với tôi – nếu đặt trong bối cảnh những công trình nghiên cứu về đời sống trí thức giai đoạn thuộc địa từ góc nhìn hậu thuộc địa mà ở đó hầu hết trí thức đều được miêu tả như những nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị hay là những nhà lập quốc rất nghiêm túc”, chị Chi chia sẻ.

Tác phẩm “Tự chủ văn chương & Sứ mệnh tự do” được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2023

Tự chủ văn chương nhân trường hợp Tự Lực Văn Đoàn

Cuối tháng 12, trước khi giải thưởng Hội Nhà văn chính thức công bố, một tọa đàm khoa học về cuốn sách đã được tổ chức “xôm tụ” ở Đại học KHXH&NV Hà Nội. Nói là xôm vì cả hội trường liên tục phải dồn chỗ ngồi, sinh viên đến rất đông, phá vỡ định kiến “chuyện từ thời 1930 -1945 ai còn hứng thú nghe”.

PGS, TS Phùng Ngọc Kiên, chủ biên cuốn sách cho biết: “Đây là một phần kết quả nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia tài trợ”. Đường đi của những công trình nghiên cứu “cao siêu” kiểu này trước nay đa phần đều chỉ lưu hành trong nhóm nhỏ, rất ít phổ biến cho công chúng, đừng nói đến in sách và bán đại trà. Nên có thể coi “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” (NXB Hội Nhà văn) là một ngoại lệ.

Cuốn sách bắt đầu bằng luận điểm của TS. Phùng Ngọc Kiên về “tính nước đôi” trong sự khai phá văn minh của người Pháp ở Đông Dương. Theo chứng minh của anh Kiên: “Công cuộc khai hóa thuộc địa của Đế chế Pháp theo sau các cuộc chiếm đóng và bình định đã làm thay đổi sâu sắc xứ Đông Dương”. Và rằng: “Người Pháp vào Việt Nam đã mang đến báo chí như một không gian công cộng mới mẻ”. Để từ đó “thế giới có vẻ đã được thu nhỏ lại hơn, và dễ bề hình dung hơn với người trí thức Việt Nam”.

Mạch khảo cứu cứ thế được dẫn dắt khéo léo với lối viết hoạt, dẫn chứng chi tiết, pha chút hài hước khiến người đọc dễ dàng bị cuốn theo. Từ đây, bức tranh về những hoạt động báo chí, văn chương chữ quốc ngữ thời kỳ đầu ở Việt Nam được phục dựng hết sức cụ thể.

Tiến sĩ Mai Anh Tuấn đánh giá: Đây là cuốn sách đầu tiên trong giới nghiên cứu Việt Nam giúp chúng ta nhìn thấy vấn đề then chốt của văn học Việt Nam thuộc địa: chính là tính tự chủ.

Nói rõ hơn về tính tự chủ trong văn chương, một số diễn giả cho rằng: tự chủ có thể hiểu là người viết sống được bằng ngòi bút mà không dựa vào nhà tài trợ. Trước thế kỷ 17, trên thế giới, đa số nhà văn vẫn chỉ sống bằng tài trợ hoặc tiền trợ cấp của nhà vua.

PGS, TS. Nguyễn Bá Thành chia sẻ, theo nghiên cứu lịch sử văn học nhiều thời kỳ thì văn học tự chủ luôn có đời sống lâu hơn, khỏe hơn văn học không tự chủ (phụ thuộc, ít giá trị tự thân).

“Điểm nhấn của cuốn sách là phân tích quá trình tự chủ về kinh tế và tự chủ về nghệ thuật thông qua ví dụ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Nỗ lực rất lớn của TLVĐ là xây dựng quá trình tự chủ kinh tế thông qua nhiều hoạt động như: báo chí, xuất bản, in ấn, quảng cáo… để quyết định việc họ sẽ tồn tại với tư cách một nhóm phái văn chương ra sao. Giữa tự chủ về kinh tế và tự chủ về nghệ thuật cái gì quan trọng hơn? Cá nhân tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ tự chủ nghệ thuật là tiên quyết, trước khi tạo lực về kinh tế.

Ví dụ qua khảo sát lượng sách bán chạy của TLVĐ, rõ ràng không phải chỉ vì họ làm quảng cáo tốt, cũng không phải vì chiến lực in ấn khôn khéo, hay nhờ cả vào lượng độc giả đã được tập dượt về văn chương mới, mà vì tất cả sản phẩm văn chương đó đủ tạo thành một hệ thẩm mỹ mới hấp dẫn người ta mua sách. Điều này nói lên rằng: trong văn chương nếu muốn tích lũy tư bản thì phải có sự khác biệt về nghệ thuật, chính sự khác biệt này khiến cho công chúng nhận ra người nghệ sĩ và tác phẩm của họ”, ông Mai Anh Tuấn nói thêm.

HẠNH ĐỖ/ TPO

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm