TIN TỨC

Cảm hứng miền núi qua một số bài thơ trong chương trình Ngữ văn mới

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-12-15 01:22:16
mail facebook google pos stwis
1291 lượt xem

Nguyễn Quỳnh Anh

Cảm hứng miền núi trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã được các nhà soạn SGK quan tâm từ nhiều năm trước đây và được thể hiện rõ qua việc giới thiệu những tác phẩm về đề tài miền núi từ văn học dân gian đến văn học viết.

Đó là truyện thơ Tiễn dặn người yêu (dân tộc Thái), Sử thi Đẻ đất đẻ nước (dân tộc Mường), Đăm Săn (dân tộc Ê đê) … rồi đến các tác phẩm của các nhà thơ dân tộc như Nông Quốc Chấn, Y Phương hay những nhà văn miền xuôi có sáng tác về miền núi như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng… Kế thừa những thành tựu đó, SGK Ngữ văn theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 tiếp tục giới thiệu được những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ miền núi với những tác phẩm lấy cảm hứng từ miền núi gắn với nền văn học đương đại đang diễn ra vô  cùng phong phú. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng tôi xin được giới thiệu một số bài thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số trong SGK Ngữ văn mới (theo chương trình GDPT 2018).

1. Nhà thơ Mai Liễu (1949 – 2020): là nhà thơ dân tộc Tày, tên thật là Ma Văn Liễu, sinh tại huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang. Mai Liễu nổi tiếng với những vần thơ thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là những vần thơ về cuộc sống, văn hóa phong tục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao, biên giới. Với khoảng 50 năm sáng tác, ông đã để lại các tập thơ đã xuất bản như: “Suối làng” (1994), “Mây vẫn bay về núi” (1995), “Lời then ai buộc” (1996), “Tìm tuổi” (1998), “Giấc mơ của núi” (2001), “Đầu nguồn mây trắng” (2004), “Bếp lửa nhà sàn” (2005), “Núi vẫn còn mưa” (2013), tuyển tập “Thơ Mai Liễu” cùng nhiều bài viết khác. Bài thơ Nếu mai em về Chiêm Hóa (in trong tập Thơ Mai Liễu) được nhà thơ sáng tác năm 1995, được đưa vào SGK Ngữ văn 8 (bộ Cánh diều) là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ với cảnh săc thiên nhiên mùa xuân cùng con người và những phong tục tập quán, những nét đẹp trong lễ hội mùa xuân ở vùng quê chiêm hóa thân thương, qua đoa nhà thơ bộc lộ tình yêu tha thiết với cảnh sắc và con người nơi đây.

Nhan đề bài thơ như một giả thiết đồng thời như lời mời gọi nhân vật trữ tình về với quê hương Chiêm Hóa, từ đó mạch cảm xúc tuôn trào với bao cung bậc. Trước hết là khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Chiêm Hóa hiện ra với mưa xuân lất phất, rét lộc, măng đang vào mùa, đôi bờ sông Gâm cát trắng, núi non xanh ngát một màu. Với cách dùng từ đầy sáng tạo (mưa tơ rét lộc) cùng biên pháp nhân hóa nhà thơ đã phác họa khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Chiêm Hóa đầy thơ mộng, căng tràn sự sống, ngút ngát màu xanh đem đến cho bài thơ sức hấp dẫn, quyến rũ và thúc giục sự trở về.

Nếu mai em về Chiêm Hóa

Cho ta gửi nỗi nhớ cùng

Tháng giêng mưa tơ rét lộc

Em về vừa kịp mùa măng.

Sông Gâm đôi bờ cát trắng

Đá ngồi dưới bến trông nhau

Non Thần hình như trẻ lại

Xanh lên ngút ngát một màu.

Cùng với khung cảnh thiên nhiên thơ mộng là vẻ đẹp con người Chiêm Hóa trong lễ hội mùa xuân, nhà thơ khéo léo lấy cảnh đẹp mùa xuân  làm nền để tôn vẻ đẹp con người, các cô gái Tày, Dao duyên dáng, xúng xính trong sắc màu thổ cẩm, sắc chàm đặc trưng của cô gái Tày như cũng  pha hương, vòng bạc lấp lánh, ngù hoa mơn mởn, nụ cười môi mọng… tất cả như rạng ngời trong buổi sớm mùa xuân. Thiên nhiên và con người cùng trong vẻ đẹp hài hòa, tình tứ, quyến rũ, không cần tả nhiều mà vẫn gợi vẻ đẹp rất riêng của các thiếu nữ dân tộc vùng cao, vẻ đẹp ấy e mùa xuân cũng lạc đường.

Phố đông cứ mải tìm nhau

Cô gái Dao nào cũng đẹp

Vòng bạc rung rinh cổ tay

Ngù hoa mơn mởn ngực đầy.

Con gái bản Tày duyên quá

Sắc chàm như cũng pha hương

Chỉ riêng nụ cười môi mọng

Mùa xuân e cũng lạc đường.

Khổ kết bài thơ một lần nữa được điệp lại như một điệp khúc ngân vang mãi, về Chiêm Hóa vào dịp tháng Giêng với những lễ tết của đồng bào dân tộc, những trò chơi dân gian gắn kết cộng đồng, là trở về nguồn cội thân thương. Lời thơ như nhắc nhở mỗi người con xa quê không quên nguồn cội của mình và trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống. Chính nhà thơ Mai Liễu từng bày tỏ quan niệm của mình về thơ: “Làm thơ là tìm cho được cái riêng trong giọng tâm tình của mình. Hô hào là điều xa lạ với tôi. Thơ nhất thiết phải chân thành, giản dị, có cảm xúc và ý tưởng mở ra nhờ óc suy tưởng từ người đọc. Thơ tối kỵ sự đơn nghĩa, nông cạn, hời hợt và giả tạo”.

Nếu mai em về Chiêm Hóa

Đầu xuân đi hội lùng tùng

Quả còn chạm vai thì nhặt

Ngày lành duyên tốt mừng nhau.

Nếu mai em về Chiêm Hóa là bài thơ trữ tình đặc sắc của Mai Liễu, với cảm xúc chân thành, ngôn từ mộc mạc, giản dị, không nhiều dụng công về nghệ thuật nhưng vẫn để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của một nhà thơ gắn bó với quê hương.

3. Nhà thơ Lý Hữu Lương – dân tộc Dao, sinh năm 1988 tại  Trấn Yên- Yên Bái, hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-san (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2013); Bình nguyên đỏ (Trường ca, NXB Lao động, 2016); Mùa biển lặng (Bút ký, NXB Quân đội Nhân dân, 2020); Yao (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2021). Nhà thơ Lý Hữu Lương từng đạt Giải thưởng Văn học, nghệ thuật, báo chí 5 năm (2014-2019) của Bộ Quốc phòng, Giải thưởng tác giả trẻ lần I năm 2001 của Hội nhà văn Việt Nam. Lý Hữu Lương là nhà thơ dân tộc có tuổi đời khá trẻ nhưng luôn trăn trở, nặng lòng với quê hương, luôn ý thức viết về nguồn cội , bản sắc, tâm hồn, văn hóa dân tộc mình. Nhà thơ từng chia sẻ: “Tôi viết cho chính đồng bào Dao của tôi, trước những chân giá trị của tổ tiên, trước biến đổi to lớn về mọi mặt đời sống, văn hoá, tư tưởng để chúng tôi không bị mờ nhạt trước thời đại”.  Bài thơ Chái bếp (in trong tập Yao) của nhà thơ Lý Hữu Lương được chọn đưa vào SGK Ngữ văn 8 (bộ Chân trời sáng tạo), đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho điệu trữ tình thơ Lý Hữu Lương.

Nhan đề Chái bếp gợi ra bao xúc cảm cho người đọc, đó là không gian gần gũi, thân thuộc với bất cứ ai, hơn nữa trái bếp còn gợi bao kỷ niệm về tuổi thơ, về người thân, gợi sự sum họp gia đình, gợi sự trở về nguồn cội, gợi nỗi nhớ quê hương, bản quán của mình. Chái bếp với đồng bào các dân tộc lại càng quan trọng, đó là không gian văn hóa gắn với bao bản sắc của đồng bào, nhà thơ chọn hình ảnh thân thuộc mà giàu giá trị văn hóa đó để giãi bày cảm xúc.  Hai khổ thơ đầu nhà thơ bày tỏ khao khát trở về chái bếp nhà mình, trở về chái bếp là trở về những gì bình dị mà thân thương, nơi ấy còn lưu giữ bao hình ảnh, bao kỷ niệm của những tháng ngày đã qua. Cảm xúc ấy như được trào dâng khi nhà thơ nhắc đến với ngọn khói cong, nồi cám đun dở của mẹ,  cánh nỏ của cha, những đêm mưa nằng nặng, tất cả như dâng trào cảm xúc nhớ thương, gợi hình ảnh tảo tần, lam lũ vất vả của người mẹ, người cha. Với thủ pháp nhân hóa (ngọn khói ngủ, chái bếp nằm nghe, chái bếp thõng mình) tác giả đã tạo dựng hình ảnh một chái bếp vừa sinh động vừa gần gũi như một sinh thể ngộ nghĩnh:

Cho tôi về chái bếp nhà tôi
Ngọn khói cong ngủ rồi chưa dậy
Nồi cám bao năm mẹ đun dở
Chái bếp nằm nghe nằng nặng đêm

Chái bếp vườn nhà cha gọi tên
Cho cánh nỏ cong hình lưỡi hái
Cho tuổi mình là hòa là trái
Chái bếp thõng mình xình xịch mưa

Hai khổ thơ 3 và 4, tác giả tiếp tục điệp lại câu thơ Cho tôi về chái bếp của tôi  để thêm một lần gợi nhắc về hình ảnh chái bếp cùng những kí ức thân thương. Đối với người Dao nói riêng và các dân tộc thiếu số khác nói chung, chái bếp có vai trò hết sức quan trọng, đó không chỉ là nơi nấu nướng thức ăn hàng ngày mà còn chứa đựng bao gí trị văn hóa tinh thần của các dân tộc. Căn bếp thường đỏ lửa suốt ngày đêm bởi nơi đó thần bếp ngự, tổ tiên về phù hộ con cháu, sưởi ấm trong tiết trời giá lạnh vùng cao, nơi trẻ con nô đùa, nơi tụ họp gia đình. Chái bếp thường được làm liền hồi nhà, nhà ba gian quá giang một chái, mái lợp bằng tranh, bằng lá cọ và có máng nước dẫn từ nguồn về để dùng.  Bởi vậy, trở về chái bếp là trở về với bao giá trị tinh thần, nhà thơ đã nhắc lại những hình ảnh, những kỷ niệm thiêng liêng đó để giãi bày khao khát được trở về chái bếp, trở về với quê hương, nguồn cội:

Cho tôi về chái bếp của tôi
Nhà ba gian quá giang một chái
Có thần bếp ngụ trong than cùi
Có mặt người dợm nắng dợm sương

Có tiếng cười tiếng khóc trên nôi
Hồn người chờ thuyền về quê cũ
Chái nhà tôi bao lần vàng cọ
Nước đầu nguồn về máng rong chơi

Khổ kết bài thơ có tới  2/4 dòng thơ điệp lại câu thơ mở đầu bài thơ khiến cảm xúc như dâng trào, mỗi dòng thơ như một nốt láy, như một điệp khúc trong một bản nhạc du dương, êm đềm về quê hương, nguồn cội, về với chái bếp là về với những gì thân thương nhất, về với người mẹ thân yêu, với tiếng cười giòn của mẹ. Đó là niềm hạnh phúc nhất của người con xa mỗi dịp trở về, trở về chái bếp là trở về với bao giá trị tinh thần đã nuôi dưỡng tâm hồn nhân vật trữ tình:

Cho tôi về chái bếp nhà tôi
Củi lửa non đêm đầy sương giá
Tiếng ngô giòn tiếng mẹ giòn hơn
Cho tôi về chái bếp nhà tôi…

Chái bếp là bài thơ bảy chữ có kết cấu đơn giản mà chặt chẽ, ngôn từ mộc mạc mà lắng sâu, bài thơ thể hiện tình yêu gia đình, quê hương sâu nặng của nhà thơ trẻ dân tộc Dao.  Bài thơ Chái bếp cùng những sáng tác khác của Lý Hữu Lương đã góp phần làm phong phú nền văn học đương đại của các dân tộc thiểu số.

4. Nhà thơ Chu Thùy Liên, tên khai sinh là Chu Tá Nộ, dân tộc Hà Nhì, còn có các bút danh khác: Ha Ni, Thanh Thùy, Nang Bua Khưa. Chu Thùy Liên sinh năm 1966 tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Chu Thùy Liên là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, các tác phẩm:Lửa Sàn Hoa, Tập thơ,  NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003, Thuyền đuôi én, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2009, Truyện cổ Hà Nhì, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002. Thơ Chu Thùy Liên nhìn chung đều nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc vùng cao Tây Bắc cũng như những đặc trưng của sắc tộc Hà Nhì.  Bài thơ Mùa hoa mận được sáng tác vào tháng Chạp năm 2006, in trong tập Thuyền đuôi én, đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp Chu Thùy Liên, bài thơ được đưa vào SGK Ngữ văn 10 (bộ Cánh diều). Mùa hoa mận là một bài thơ có tuổi đời khá trẻ nhưng nhanh chóng được bạn đọc yêu thích bởi sự gần gũi, giản dị mà gợi bao đặc trưng miền núi Tây Bắc với hoa mận trắng muốt mỗi dịp xuân về, với những phong tục lễ tết quen thuộc của đồng bào các dân tộc, là nhà trình tường, là hương nếp nương, là bếp lửa hồng để gợi trong lòng mỗi người con đi xa háo hức trở về.

Bài thơ gồm ba khổ,mở đầu mỗi khổ thơ đều bằng Cành mận bung cánh muốt như một tín hiệu thẩm mỹ để nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Thời điểm cành mận nở hoa trắng muốt là lúc núi rừng Tây Bắc nhộn nhịp tết đến xuân về, sự háo hức biểu hiện rõ nhất qua hình ảnh những đứa trẻ trên các bản làng, con trai chơi cù, con gái chuẩn bị khăn áo chơi xuân, những đứa trẻ háo hức với bóng bay. Tất cả gợi ra không khí vui tươi, rộn ràng cùng sự hồn nhiên, ngộ nghĩnh, đáng yêu của những đứa trẻ.

Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ

Đến khổ thơ thứ hai, khi cảnh mận bung cánh muốt cũng là lúc những người lớn trong bản khẩn trương, tất bật với những công việc của mình để đón tết, mừng xuân. Mẹ chuẩn bị lá, gạo gói bánh, đồ xôi dâng cúng thần núi, thần rừng, tổ tiên cầu mong no ấm bình an, mùa màng tươi tốt, cha căng cánh nỏ cho hội thi bắn ngày xuân, các cụ già hối hả làm đu cho kịp chơi xuân. Chỉ với ba câu thơ nhưng tác giả đã làm nổi bật sự nhộn nhịp, rộn ràng trong các gia đình cũng như bản làng. Mỗi người mỗi việc đều hối hả, khẩn trương nhưng cũng rạng ngời niềm vui của cuộc sống yên bình, no đủ, tất cả như đang hòa cùng sắc xuân trắng muốt nơi cành mận để đón một mùa xuân mới ấm áp, vui tươi.

 
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu

Khổ thơ kết bài tái hiện những ngôi nhà trình tường truyền thống của đồng bào dân tộc nhưng ngôi nhà ấy mùa xuân cũng như được ủ nếp hương, đó là hương xôi bánh, hương men rượu, hương quả hoa rừng… trong lành, dịu ngọt. Cùng với đó là căn bếp với ngọn lửa hồng như nở hoa, tất cả gợi sự sum họp quây quần, đầm ấm khiến ai đi xa mà chẳng nhớ mong trở về. Mùa xuân đất trời khiến cảm xúc của nhân vật trữ tình dâng trào, đó là những tình cảm về gia đình, về nguồn cội, về quê hương Đất nước. 
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về…

 Với ngôn từ giản dị, hình ảnh giàu sức gợi, những biện pháp tu từ quen thuộc cùng thể thơ năm chữ nhưng bài thơ Mùa hoa mận vẫn để lại những dư vị lắng sâu trong lòng người đọc. Nhà thơ Chu Thùy Liên đã truyền cảm hứng đến cho người đọc những tình cảm thiêng liêng về quê hương, Đất nước. Đọc xong bài thơ nhưng những sắc màu vùng cao cứ lấp lánh mãi trong tâm trí người đọc.

5. Ba bài thơ nói trên của ba tác giả khác nhau, có hoàn cảnh sáng tác khác nhau, được viết theo các thể thơ khác nhau, mang sắc màu dân tộc khác nhau nhưng lại có rất nhiều điểm chung: Cả ba bài thơ đều thể hiện cảm hứng về miền núi, tình yêu nguồn cội, các giá trị văn hóa dân tộc, quê hương, Đất nước, đều khao khát trở về; Ba bài thơ đều có cách thể hiện giản dị, ngôn từ mộc mạc gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào các dân tộc vùng cao nhưng được lựa chọn, chắt lọc, giàu sức biểu cảm. Có thể nói đó là ba bài thơ đương đại có giá trị của các tác giả dân tộc thiểu số góp phần làm phong phú đời sống Văn học Việt Nam.

11/2023

N.Q.A 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm