TIN TỨC

Cảm hứng miền núi qua một số bài thơ trong chương trình Ngữ văn mới

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-12-15 01:22:16
mail facebook google pos stwis
1830 lượt xem

Nguyễn Quỳnh Anh

Cảm hứng miền núi trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã được các nhà soạn SGK quan tâm từ nhiều năm trước đây và được thể hiện rõ qua việc giới thiệu những tác phẩm về đề tài miền núi từ văn học dân gian đến văn học viết.

Đó là truyện thơ Tiễn dặn người yêu (dân tộc Thái), Sử thi Đẻ đất đẻ nước (dân tộc Mường), Đăm Săn (dân tộc Ê đê) … rồi đến các tác phẩm của các nhà thơ dân tộc như Nông Quốc Chấn, Y Phương hay những nhà văn miền xuôi có sáng tác về miền núi như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng… Kế thừa những thành tựu đó, SGK Ngữ văn theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 tiếp tục giới thiệu được những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ miền núi với những tác phẩm lấy cảm hứng từ miền núi gắn với nền văn học đương đại đang diễn ra vô  cùng phong phú. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng tôi xin được giới thiệu một số bài thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số trong SGK Ngữ văn mới (theo chương trình GDPT 2018).

1. Nhà thơ Mai Liễu (1949 – 2020): là nhà thơ dân tộc Tày, tên thật là Ma Văn Liễu, sinh tại huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang. Mai Liễu nổi tiếng với những vần thơ thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là những vần thơ về cuộc sống, văn hóa phong tục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao, biên giới. Với khoảng 50 năm sáng tác, ông đã để lại các tập thơ đã xuất bản như: “Suối làng” (1994), “Mây vẫn bay về núi” (1995), “Lời then ai buộc” (1996), “Tìm tuổi” (1998), “Giấc mơ của núi” (2001), “Đầu nguồn mây trắng” (2004), “Bếp lửa nhà sàn” (2005), “Núi vẫn còn mưa” (2013), tuyển tập “Thơ Mai Liễu” cùng nhiều bài viết khác. Bài thơ Nếu mai em về Chiêm Hóa (in trong tập Thơ Mai Liễu) được nhà thơ sáng tác năm 1995, được đưa vào SGK Ngữ văn 8 (bộ Cánh diều) là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ với cảnh săc thiên nhiên mùa xuân cùng con người và những phong tục tập quán, những nét đẹp trong lễ hội mùa xuân ở vùng quê chiêm hóa thân thương, qua đoa nhà thơ bộc lộ tình yêu tha thiết với cảnh sắc và con người nơi đây.

Nhan đề bài thơ như một giả thiết đồng thời như lời mời gọi nhân vật trữ tình về với quê hương Chiêm Hóa, từ đó mạch cảm xúc tuôn trào với bao cung bậc. Trước hết là khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Chiêm Hóa hiện ra với mưa xuân lất phất, rét lộc, măng đang vào mùa, đôi bờ sông Gâm cát trắng, núi non xanh ngát một màu. Với cách dùng từ đầy sáng tạo (mưa tơ rét lộc) cùng biên pháp nhân hóa nhà thơ đã phác họa khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Chiêm Hóa đầy thơ mộng, căng tràn sự sống, ngút ngát màu xanh đem đến cho bài thơ sức hấp dẫn, quyến rũ và thúc giục sự trở về.

Nếu mai em về Chiêm Hóa

Cho ta gửi nỗi nhớ cùng

Tháng giêng mưa tơ rét lộc

Em về vừa kịp mùa măng.

Sông Gâm đôi bờ cát trắng

Đá ngồi dưới bến trông nhau

Non Thần hình như trẻ lại

Xanh lên ngút ngát một màu.

Cùng với khung cảnh thiên nhiên thơ mộng là vẻ đẹp con người Chiêm Hóa trong lễ hội mùa xuân, nhà thơ khéo léo lấy cảnh đẹp mùa xuân  làm nền để tôn vẻ đẹp con người, các cô gái Tày, Dao duyên dáng, xúng xính trong sắc màu thổ cẩm, sắc chàm đặc trưng của cô gái Tày như cũng  pha hương, vòng bạc lấp lánh, ngù hoa mơn mởn, nụ cười môi mọng… tất cả như rạng ngời trong buổi sớm mùa xuân. Thiên nhiên và con người cùng trong vẻ đẹp hài hòa, tình tứ, quyến rũ, không cần tả nhiều mà vẫn gợi vẻ đẹp rất riêng của các thiếu nữ dân tộc vùng cao, vẻ đẹp ấy e mùa xuân cũng lạc đường.

Phố đông cứ mải tìm nhau

Cô gái Dao nào cũng đẹp

Vòng bạc rung rinh cổ tay

Ngù hoa mơn mởn ngực đầy.

Con gái bản Tày duyên quá

Sắc chàm như cũng pha hương

Chỉ riêng nụ cười môi mọng

Mùa xuân e cũng lạc đường.

Khổ kết bài thơ một lần nữa được điệp lại như một điệp khúc ngân vang mãi, về Chiêm Hóa vào dịp tháng Giêng với những lễ tết của đồng bào dân tộc, những trò chơi dân gian gắn kết cộng đồng, là trở về nguồn cội thân thương. Lời thơ như nhắc nhở mỗi người con xa quê không quên nguồn cội của mình và trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống. Chính nhà thơ Mai Liễu từng bày tỏ quan niệm của mình về thơ: “Làm thơ là tìm cho được cái riêng trong giọng tâm tình của mình. Hô hào là điều xa lạ với tôi. Thơ nhất thiết phải chân thành, giản dị, có cảm xúc và ý tưởng mở ra nhờ óc suy tưởng từ người đọc. Thơ tối kỵ sự đơn nghĩa, nông cạn, hời hợt và giả tạo”.

Nếu mai em về Chiêm Hóa

Đầu xuân đi hội lùng tùng

Quả còn chạm vai thì nhặt

Ngày lành duyên tốt mừng nhau.

Nếu mai em về Chiêm Hóa là bài thơ trữ tình đặc sắc của Mai Liễu, với cảm xúc chân thành, ngôn từ mộc mạc, giản dị, không nhiều dụng công về nghệ thuật nhưng vẫn để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của một nhà thơ gắn bó với quê hương.

3. Nhà thơ Lý Hữu Lương – dân tộc Dao, sinh năm 1988 tại  Trấn Yên- Yên Bái, hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-san (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2013); Bình nguyên đỏ (Trường ca, NXB Lao động, 2016); Mùa biển lặng (Bút ký, NXB Quân đội Nhân dân, 2020); Yao (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2021). Nhà thơ Lý Hữu Lương từng đạt Giải thưởng Văn học, nghệ thuật, báo chí 5 năm (2014-2019) của Bộ Quốc phòng, Giải thưởng tác giả trẻ lần I năm 2001 của Hội nhà văn Việt Nam. Lý Hữu Lương là nhà thơ dân tộc có tuổi đời khá trẻ nhưng luôn trăn trở, nặng lòng với quê hương, luôn ý thức viết về nguồn cội , bản sắc, tâm hồn, văn hóa dân tộc mình. Nhà thơ từng chia sẻ: “Tôi viết cho chính đồng bào Dao của tôi, trước những chân giá trị của tổ tiên, trước biến đổi to lớn về mọi mặt đời sống, văn hoá, tư tưởng để chúng tôi không bị mờ nhạt trước thời đại”.  Bài thơ Chái bếp (in trong tập Yao) của nhà thơ Lý Hữu Lương được chọn đưa vào SGK Ngữ văn 8 (bộ Chân trời sáng tạo), đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho điệu trữ tình thơ Lý Hữu Lương.

Nhan đề Chái bếp gợi ra bao xúc cảm cho người đọc, đó là không gian gần gũi, thân thuộc với bất cứ ai, hơn nữa trái bếp còn gợi bao kỷ niệm về tuổi thơ, về người thân, gợi sự sum họp gia đình, gợi sự trở về nguồn cội, gợi nỗi nhớ quê hương, bản quán của mình. Chái bếp với đồng bào các dân tộc lại càng quan trọng, đó là không gian văn hóa gắn với bao bản sắc của đồng bào, nhà thơ chọn hình ảnh thân thuộc mà giàu giá trị văn hóa đó để giãi bày cảm xúc.  Hai khổ thơ đầu nhà thơ bày tỏ khao khát trở về chái bếp nhà mình, trở về chái bếp là trở về những gì bình dị mà thân thương, nơi ấy còn lưu giữ bao hình ảnh, bao kỷ niệm của những tháng ngày đã qua. Cảm xúc ấy như được trào dâng khi nhà thơ nhắc đến với ngọn khói cong, nồi cám đun dở của mẹ,  cánh nỏ của cha, những đêm mưa nằng nặng, tất cả như dâng trào cảm xúc nhớ thương, gợi hình ảnh tảo tần, lam lũ vất vả của người mẹ, người cha. Với thủ pháp nhân hóa (ngọn khói ngủ, chái bếp nằm nghe, chái bếp thõng mình) tác giả đã tạo dựng hình ảnh một chái bếp vừa sinh động vừa gần gũi như một sinh thể ngộ nghĩnh:

Cho tôi về chái bếp nhà tôi
Ngọn khói cong ngủ rồi chưa dậy
Nồi cám bao năm mẹ đun dở
Chái bếp nằm nghe nằng nặng đêm

Chái bếp vườn nhà cha gọi tên
Cho cánh nỏ cong hình lưỡi hái
Cho tuổi mình là hòa là trái
Chái bếp thõng mình xình xịch mưa

Hai khổ thơ 3 và 4, tác giả tiếp tục điệp lại câu thơ Cho tôi về chái bếp của tôi  để thêm một lần gợi nhắc về hình ảnh chái bếp cùng những kí ức thân thương. Đối với người Dao nói riêng và các dân tộc thiếu số khác nói chung, chái bếp có vai trò hết sức quan trọng, đó không chỉ là nơi nấu nướng thức ăn hàng ngày mà còn chứa đựng bao gí trị văn hóa tinh thần của các dân tộc. Căn bếp thường đỏ lửa suốt ngày đêm bởi nơi đó thần bếp ngự, tổ tiên về phù hộ con cháu, sưởi ấm trong tiết trời giá lạnh vùng cao, nơi trẻ con nô đùa, nơi tụ họp gia đình. Chái bếp thường được làm liền hồi nhà, nhà ba gian quá giang một chái, mái lợp bằng tranh, bằng lá cọ và có máng nước dẫn từ nguồn về để dùng.  Bởi vậy, trở về chái bếp là trở về với bao giá trị tinh thần, nhà thơ đã nhắc lại những hình ảnh, những kỷ niệm thiêng liêng đó để giãi bày khao khát được trở về chái bếp, trở về với quê hương, nguồn cội:

Cho tôi về chái bếp của tôi
Nhà ba gian quá giang một chái
Có thần bếp ngụ trong than cùi
Có mặt người dợm nắng dợm sương

Có tiếng cười tiếng khóc trên nôi
Hồn người chờ thuyền về quê cũ
Chái nhà tôi bao lần vàng cọ
Nước đầu nguồn về máng rong chơi

Khổ kết bài thơ có tới  2/4 dòng thơ điệp lại câu thơ mở đầu bài thơ khiến cảm xúc như dâng trào, mỗi dòng thơ như một nốt láy, như một điệp khúc trong một bản nhạc du dương, êm đềm về quê hương, nguồn cội, về với chái bếp là về với những gì thân thương nhất, về với người mẹ thân yêu, với tiếng cười giòn của mẹ. Đó là niềm hạnh phúc nhất của người con xa mỗi dịp trở về, trở về chái bếp là trở về với bao giá trị tinh thần đã nuôi dưỡng tâm hồn nhân vật trữ tình:

Cho tôi về chái bếp nhà tôi
Củi lửa non đêm đầy sương giá
Tiếng ngô giòn tiếng mẹ giòn hơn
Cho tôi về chái bếp nhà tôi…

Chái bếp là bài thơ bảy chữ có kết cấu đơn giản mà chặt chẽ, ngôn từ mộc mạc mà lắng sâu, bài thơ thể hiện tình yêu gia đình, quê hương sâu nặng của nhà thơ trẻ dân tộc Dao.  Bài thơ Chái bếp cùng những sáng tác khác của Lý Hữu Lương đã góp phần làm phong phú nền văn học đương đại của các dân tộc thiểu số.

4. Nhà thơ Chu Thùy Liên, tên khai sinh là Chu Tá Nộ, dân tộc Hà Nhì, còn có các bút danh khác: Ha Ni, Thanh Thùy, Nang Bua Khưa. Chu Thùy Liên sinh năm 1966 tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Chu Thùy Liên là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, các tác phẩm:Lửa Sàn Hoa, Tập thơ,  NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003, Thuyền đuôi én, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2009, Truyện cổ Hà Nhì, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002. Thơ Chu Thùy Liên nhìn chung đều nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc vùng cao Tây Bắc cũng như những đặc trưng của sắc tộc Hà Nhì.  Bài thơ Mùa hoa mận được sáng tác vào tháng Chạp năm 2006, in trong tập Thuyền đuôi én, đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp Chu Thùy Liên, bài thơ được đưa vào SGK Ngữ văn 10 (bộ Cánh diều). Mùa hoa mận là một bài thơ có tuổi đời khá trẻ nhưng nhanh chóng được bạn đọc yêu thích bởi sự gần gũi, giản dị mà gợi bao đặc trưng miền núi Tây Bắc với hoa mận trắng muốt mỗi dịp xuân về, với những phong tục lễ tết quen thuộc của đồng bào các dân tộc, là nhà trình tường, là hương nếp nương, là bếp lửa hồng để gợi trong lòng mỗi người con đi xa háo hức trở về.

Bài thơ gồm ba khổ,mở đầu mỗi khổ thơ đều bằng Cành mận bung cánh muốt như một tín hiệu thẩm mỹ để nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Thời điểm cành mận nở hoa trắng muốt là lúc núi rừng Tây Bắc nhộn nhịp tết đến xuân về, sự háo hức biểu hiện rõ nhất qua hình ảnh những đứa trẻ trên các bản làng, con trai chơi cù, con gái chuẩn bị khăn áo chơi xuân, những đứa trẻ háo hức với bóng bay. Tất cả gợi ra không khí vui tươi, rộn ràng cùng sự hồn nhiên, ngộ nghĩnh, đáng yêu của những đứa trẻ.

Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ

Đến khổ thơ thứ hai, khi cảnh mận bung cánh muốt cũng là lúc những người lớn trong bản khẩn trương, tất bật với những công việc của mình để đón tết, mừng xuân. Mẹ chuẩn bị lá, gạo gói bánh, đồ xôi dâng cúng thần núi, thần rừng, tổ tiên cầu mong no ấm bình an, mùa màng tươi tốt, cha căng cánh nỏ cho hội thi bắn ngày xuân, các cụ già hối hả làm đu cho kịp chơi xuân. Chỉ với ba câu thơ nhưng tác giả đã làm nổi bật sự nhộn nhịp, rộn ràng trong các gia đình cũng như bản làng. Mỗi người mỗi việc đều hối hả, khẩn trương nhưng cũng rạng ngời niềm vui của cuộc sống yên bình, no đủ, tất cả như đang hòa cùng sắc xuân trắng muốt nơi cành mận để đón một mùa xuân mới ấm áp, vui tươi.

 
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu

Khổ thơ kết bài tái hiện những ngôi nhà trình tường truyền thống của đồng bào dân tộc nhưng ngôi nhà ấy mùa xuân cũng như được ủ nếp hương, đó là hương xôi bánh, hương men rượu, hương quả hoa rừng… trong lành, dịu ngọt. Cùng với đó là căn bếp với ngọn lửa hồng như nở hoa, tất cả gợi sự sum họp quây quần, đầm ấm khiến ai đi xa mà chẳng nhớ mong trở về. Mùa xuân đất trời khiến cảm xúc của nhân vật trữ tình dâng trào, đó là những tình cảm về gia đình, về nguồn cội, về quê hương Đất nước. 
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về…

 Với ngôn từ giản dị, hình ảnh giàu sức gợi, những biện pháp tu từ quen thuộc cùng thể thơ năm chữ nhưng bài thơ Mùa hoa mận vẫn để lại những dư vị lắng sâu trong lòng người đọc. Nhà thơ Chu Thùy Liên đã truyền cảm hứng đến cho người đọc những tình cảm thiêng liêng về quê hương, Đất nước. Đọc xong bài thơ nhưng những sắc màu vùng cao cứ lấp lánh mãi trong tâm trí người đọc.

5. Ba bài thơ nói trên của ba tác giả khác nhau, có hoàn cảnh sáng tác khác nhau, được viết theo các thể thơ khác nhau, mang sắc màu dân tộc khác nhau nhưng lại có rất nhiều điểm chung: Cả ba bài thơ đều thể hiện cảm hứng về miền núi, tình yêu nguồn cội, các giá trị văn hóa dân tộc, quê hương, Đất nước, đều khao khát trở về; Ba bài thơ đều có cách thể hiện giản dị, ngôn từ mộc mạc gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào các dân tộc vùng cao nhưng được lựa chọn, chắt lọc, giàu sức biểu cảm. Có thể nói đó là ba bài thơ đương đại có giá trị của các tác giả dân tộc thiểu số góp phần làm phong phú đời sống Văn học Việt Nam.

11/2023

N.Q.A 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm