TIN TỨC

Chân dung người nổi tiếng được chấm phá bằng vần điệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-07 16:11:20
mail facebook google pos stwis
376 lượt xem

TUY HÒA

Chân dung người nổi tiếng khi khắc họa qua thi ca cũng có những thú vị riêng, vì công chúng vừa thấy tài năng nhân vật vừa thấy tài năng tác giả. Sau trường hợp “Chân dung nhà văn” của nhà thơ Xuân Sách, nhiều tác giả khác cũng tỏ ra hào hứng với thể loại này.

Chân dung người nổi tiếng là một đề tài được nhiều nhà thơ yêu thích. Trong tập di cảo của nhà thơ Lê Đạt (1929-2008) có tên gọi “Album trắng” do NXB Hội Nhà văn ấn hành, cũng có khá nhiều bài thơ chân dung người nổi tiếng. Ví dụ, nhà thơ Lê Đạt viết về nhạc sĩ Tử Phác “Người đáy mộ tâm còn luyến láy/ Đèn vàng nhấp nháy ngã tơ quay” hoặc viết về triết gia Trần Đức Thảo “Lặng lẽ bước đường trường độc thoại/ Nghĩa trang lành cỏ dại bình xanh”.
 

Bìa tập sách của tác giả Nguyên Hùng ký họa chân dung người nổi tiếng bằng thơ.

Dùng vần điệu để chấm phá chân dung người nổi tiếng không hề đơn giản. Bởi lẽ, ngoài thủ pháp đơn giản là sử dụng những tư liệu, những sự kiện liên quan đến nhân vật, thì không dễ tạo điểm nhấn riêng biệt để công chúng mường tượng đầy đủ chân dung người nổi tiếng. Phổ biến nhất trong dòng thơ về chân dung người nổi tiếng là vần điệu các nhà thơ ký họa đồng nghiệp. Lý do, các tác giả vốn có sẵn tên gọi tác phẩm của họ để lắp ghép lại thành những câu mang giá trị thẩm mỹ nhất định.

Ví dụ, trong tập “Ký họa thơ”, nhà thơ Nguyên Hùng viết về bậc tài danh Văn Cao: “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Càng ngẫm càng yêu khuôn mặt em/ Càng thương những người trên cửa biển/ Bạc đầu chờ mùa xuân đầu tiên/ Anh có nghe không những bài ca sống lại/ Về bến xuân hát mãi không thôi/ Tự lúc nào trong âm thầm gác tối/ Buồn tàn thu ám vận suốt một đời?”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh có ý thức làm thơ chân dung từ lâu. Rải rác suốt hành trình sáng tạo của chị, những chân dung của tiền nhân và những chân dung của bè bạn cứ hiện ra nhẹ nhàng và ấm áp. Bây giờ, gom các bài thơ chân dung ấy vào một tập “Thơ chân dung” do NXB Hội Nhà văn ấn hành, bỗng nhận ra thơ chân dung cũng là kết quả “trời đất chẳng phụ người nhân hậu” như một câu thơ của chị.

Thơ chân dung thường được viết bằng thái độ thù tạc hoặc bằng tư duy đáo để. Thái độ thù tạc thì chủ yếu câu chữ vuốt ve để giao lưu và bông đùa. Còn tư duy đáo để, đôi khi lại nhấn nhá vài góc khuất có ý mỉa mai và cười cợt. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh không đi theo lối mòn ấy. Hay nói cách khác, nhà thơ Đặng Nguyệt Anh có một nguồn năng lượng yêu thương và trân trọng để tìm thấy chân dung thơ theo cách riêng mình.

Nguyễn Bính và Trần Dần là hai trường hợp có tài năng khác nhau và cũng nếm trải bi kịch dương gian khác nhau. Không thể viết về Nguyễn Bính và Trần Dần bằng những lời vu vơ giống hệt nhau. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh phát hiện nét độc đáo của mỗi người, để giúp Nguyễn Bính thổ lộ: “Tương tư chưa hết một đời/ Duyên thơ thắt buộc cho người dở dang” và khẳng định giá trị của Trần Dần: “Ông mang một tia hy vọng/ Tặng cho người tuyệt vọng”.

Mỗi tác giả viết thơ chân dung luôn đặt ra hai mục tiêu, viết vì nhân vật và viết cho chính mình. Cho nên, bên cạnh việc gửi gắm sự tin yêu đến nhân vật, thì thơ chân dung phải có được những câu thơ mang dấu ấn đích thực của tác giả.

Loại thơ chân dung gây xôn xao nhất phải nhắc đến tập “Chân dung nhà văn” xuất bản năm 1992 của nhà thơ Xuân Sách (1932-2008). Lúc sinh thời, chứng kiến tập “Chân dung nhà văn” được đón nhận với những ý kiến trái chiều, nhà thơ Xuân Sách đã hé lộ loại thơ chân dung của ông đã nhen nhóm từ cuối thập niên 1960 ở tòa soạn Văn nghệ Quân đội:

“Cơ quan chúng tôi có tục lệ sau các cuộc họp sơ kết tổng kết thường có mục vui cười. Lần này cũng vậy, Nguyễn Khải khởi xướng: “Tôi đề nghị anh Xuân Sách đọc những bài thơ chân dung mới ra lò. Thời phong kiến vua uy quyền đến thế mà vẫn để một khe hở, tha chết cho quan ngự sử khi có lời trái ý hoàng thượng, anh Sách cũng được hưởng cái quyền miễn trảm ấy nên cứ đọc thoải mái. Xin đọc về tôi trước”.

Thực ra lúc đó tôi chưa chính thức viết chân dung Nguyễn Khải, chỉ có mấy câu đùa tếu, Nguyễn Khải vẫn cứ đọc làm mồi. Rằng trước khi tôi đi ra đảo Cồn Cỏ, vợ tôi lo lắng, tôi có an ủi: “Em đừng tính quẩn lo quanh, họ chiến đấu chứ có phải anh đâu”, rồi khi tôi gặp đồng chí Bí thư huyện ủy Hòa Vang được triệu tập ra Bắc để báo cáo thành tích chiến đấu, vợ tôi lại tưởng tôi đi B nên tôi phải nói: “Anh đi một lát về ngay. Hòa Vang chính ở ngoài này đó em”.

Chờ mọi người cười xong, Nguyễn Khải tiếp: “Tôi chỉ nhớ có vậy, vả lại tôi vốn nhạt nên ông Xuân Sách khó viết hay, bây giờ đề nghị anh đọc bài mới, những bài về anh em ngồi đây càng tốt”.

Tập di cảo của nhà thơ Lê Đạt.

Sau khoảng ba mươi năm miệt mài, nhà thơ Xuân Sách sàng lọc được 100 bài thơ để đưa vào tập “Chân dung nhà văn”, trong đó 99 bài xưng tụng các đồng nghiệp và một bài ông tự vẽ mặt mình: “Cô giáo làng tôi đã chết rồi/ Một đêm ra trận đất bom vùi/ Xót xa Đình Bảng người du kích/ Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi/ Đường tới chiến công gân cốt mỏi/ Lối vào lửa sởn tóc da mồi/ Mặt trời ảm đạm quê hương cũ/ Ở một cung đường rách tả tơi”.

Khi cấp giấy phép xuất bản tập “Chân dung nhà văn”, nhà thơ Lữ Huy Nguyên (1939-1998) với tư cách Giám đốc NXB Văn học đã viết: “Đây là những ký họa có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng.

Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào những nét đặc tả ấy, tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện, vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật. Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó.

Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận xét ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết”.

Dẫu tập “Chân dung nhà văn” rất lừng lẫy, nhưng nhà thơ Xuân Sách không phải người đầu tiên làm thơ chân dung trong văn học chữ quốc ngữ Việt Nam. Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989) và nhà thơ Tú Mỡ (1906-1976) trên mục “Minh niên giáng bút” của Báo Ngày nay xuân 1940, đã cùng nhau viết thơ chân dung các đồng nghiệp. Chẳng hạn, chân dung Nguyễn Tuân được Thế Lữ và Tú Mỡ chấm phá: “Nghe vang theo bóng một thời/ Tên này thực biết vâng lời người trên/ Bây giờ gần gụi ả phiền/ Hỏi han câu chuyện ngọn đèn dầu ta”.

Khi làm thơ chân dung, mỗi nhà thơ có một góc nhìn nhân vật và một thái độ thẩm mỹ khác nhau. Cùng bái vọng tiền bối Nguyễn Bính, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm và nhà thơ Trần Mạnh Hảo đều dùng thể loại lục bát, nhưng lại mang hai phong cách dị biệt.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết: “Hai lần lỡ bước sang ngang/ Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi/ Trăm hoa thân rã cành rời/ Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ/ Kìa ai đường nắng mịt mù/ Giắt đầu nắm lá hương nhu gánh gồng/ Kìa con bướm trắng vẽ vòng/ Và hồn trinh nữ ngồi hong tơ buồn/ Hình như phía cuối hoàng hôn/ Hao hao anh lái vào thôn bán thuyền/ Đường xa thi khách không tiền/ Bước vô quán trọ đến thềm lại thôi/ Sững sờ trước giậu mùng tơi/ Hỏi người, người đã mấy hồi sang ngang”.

Còn nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết: “Trăm hoa dễ được hoa nào/ Về xem bướm hóa thi hào vườn dâu/ Về xem cái kén mọc đầu/ Ruột gan rút hết từng câu nhân tình/ Tài cao đẩy thấp phận mình/ Vỉa nồi niêu vẫn còn kinh hề mồi/ Thơ không thể đổ vào nồi/ Ngắm mình trong nước giếng thơi hết hồn/ Đêm sao sáng cạn hoàng hôn/ Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần/ Một đoàn bươm bướm đưa chân/ Hai hàng lục bát khiêng phần mộ thơ”.

Trở lại với tập “Album trắng” của nhà thơ Lê Đạt. Thơ chân dung cũng được nhà thơ Lê Đạt thể hiện tối giản, độc giả phải đoán “bóng” qua “chữ”. Chẳng hạn, viết về nhà thơ Quang Dũng “Tây tiến Mai Châu còn mộng biếc/ Trọn đời nhất bận việc rong chơi”, viết về nhà thơ Hoàng Cầm “Hồn cò trắng khất tình trăng sông Đuống/ Mộng vàng cầm giải chấp cuống diêu bông”, viết về nhà thơ Hữu Loan “Mấy chữ sim đồi hoa tím mãi/ Tóc dài râu bạc đãi sông mưa” hoặc viết về nhà văn Trương Tửu “Rời bục giảng đường về ở ẩn/ Ông lang Hàng Gà cứu hận Bách Khoa”.

Nguồn:  .

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm