TIN TỨC

Chinh Văn, lời chim bão tố

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-10-07 08:46:05
mail facebook google pos stwis
1605 lượt xem

HUỲNH VĂN HOA

Chinh Văn tên thật Phan Tân Minh, sinh năm 1945, tại làng Bảo An, xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Các bút danh khác Phan Oanh Giang, Trần Thị Lý, …

Đã theo học Đại học Văn khoa - Sài Gòn, Trường Báo chí Trung ương Cục Miền Nam, Trường viết văn Nguyễn Du - Hà Nội.

Tham gia phong trào TNSVHS, Phong trào tự trị đại học, Thành viên Liên minh các Lực lượng Dân tộc - Dân chủ - Hòa bình từ năm 1968.

Có thơ, truyện đăng trên các báo, tạp chí: Ngày Mới, Giữ thơm quê mẹ, Tranh Đấu, Hồn Trẻ, …

Tác phẩm: - Lời chim bão tố, Thơ, 1967/ - Trên đường vinh quang, Kịch thơ, 1967

Chinh Văn là em ruột nhà văn Chinh Ba (Phan Tân Nhựt, sinh này 10-12-1934, mất ngày 12-07-2022), cùng tộc với Phan Khôi. Chinh Ba, tác giả nhiều truyện ngắn hay viết và in trong những năm 50, 60 của thế kỷ XX tại Sài Gòn, nổi tiếng với truyện ngắn Bài thơ trên xương cụt, viết trong nhà tù Chí Hòa, đăng trên Giữ thơm quê mẹ, số 4, tháng 10-1965, sau in trong tập Ảo tượng cùng với những tác giả như Sơn Nam, Thiều Chi, Nhất Hạnh, Võ Phiến, Tuệ Uyển, Hồ Hữu Tường, do Lá Bối xuất bản, in lần đầu 1966, lần thứ hai 1971.

Những bài thơ đầu tiên của Chinh Văn in rải rác trên các báo, tạp chí là những dòng thơ trong sáng, nặng tình quê và tình người. Thơ Chinh Văn thường dài, cấu trúc theo thể tự do, độ dài ngắn mỗi dòng thơ thường không đồng đều.

Vậy mà, trên Trăm năm thơ Đất Quảng, NXB Hội Nhà văn, 2005, có tuyển bài Mai sau viết tại Phan Rang, năm 1962, chỉ 8 câu lục bát. Tám dòng lục bát là lời những cầu xin, lời cầu xin chân thành, tha thiết, dẫu có lìa đời:

Mai sau dẫu có lìa đời

Xin làm ghế đá đợi người bên sông

Để trời rộng bớt mênh mông

Để em bớt chút long đong đường dài

Để con trẻ có chỗ chơi

Để người già có chốn ngồi nghỉ chân

Để đôi lứa bớt phân vân

Có nơi ngồi lại ân cần bên nhau.

Tâm tình của tác giả qua năm lần sử dụng từ "để" và ba lần dùng từ "bớt". Qua đó, ghế đá trở thành một bến đỗ bình yên, trở thành một nơi chốn vui vầy, đoàn tụ, thành nơi đi và về của những con người cần sự sẻ chia, sự thông cảm. Ý tưởng nhân văn đó thấm vào từng câu thơ, từng hình ảnh, tạo nên giá trị thẩm mỹ của bài thơ. Vì thế, cái  vòng sóng yêu thương cứ lan tỏa, lan tỏa mãi, tạo sự đồng cảm nơi người đọc.

Cái bao la của đất trời bớt mênh mông. Cái đường dài xa thẳm bớt long đong. Nơi con trẻ có chỗ vui chơi, đùa giỡn. Nơi người già, có chốn dừng chân. Nơi đôi lứa yêu nhau, có nơi ngồi lại ân cần bên nhau. Mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, xét về quyền sống, đều được thụ hưởng và có quyền thụ hưởng. Đích đến của bài thơ là ở chỗ đó. 

Trên tạp chí Giữ thơm quê mẹ, số 7&8, Xuân Bính Ngọ, 1-1-1966, Lời chim bão tố xuất hiện. Câu đầu tiên của bài thơ: Hãy ở lại với chúng tôi. Từ đây, điệp khúc này được lặp lại nhiều lần.

Bài thơ có 389 từ với 89 dòng, kể cả dòng chỉ một từ, có đến 18 lần sử dụng từ "hãy", đặt ở đầu mỗi dòng thơ. Bài thơ viết theo thể tự do, không gò bó trong niêm luật. Bài thơ khiến cho ta dễ hình dung như một bầy chim bay trong con lốc của bão tố. Sự cuồng phong về ngôn ngữ, hình ảnh đã xô giạt cảm xúc, suy tư của người đọc, nhất là qua lớp từ đậm sắc thái biểu cảm của từ cầu khiến: HÃY. Mười tám lần kêu lên: HÃY. Có lẽ, đây là bài thơ có số lượng phó từ cầu khiến chiếm số lượng và tỷ lệ cao trong thơ ca yêu nước tại miền Nam trước 1975: 

Hãy ở lại với chúng tôi (4 lần)

hãy cất cao lời thơ hùng vĩ

hãy cất cao lời ru sầu xứ

hãy thêm cao

hãy thêm nặng

hãy gào thét nung tinh thần bất khuất

hãy bước tới           

hãy thêm

thêm nhiều nữa

hãy cuồng nhiệt cho sóng triều trùng điệp

hãy hăng say như vận tốc mặt trời

hãy vào lò và gió

hãy ngàn khơi

hãy bão tố dậy cuồng phong

hãy ngàn trượng

Từ "hãy", qua ngữ cảnh của bài thơ, tạo nên một sắc thái nghĩa đa dạng, phong phú. Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, 2005, trang 426, "hãy", có nghĩa: 

1. Thường kết hợp với từ còn; dùng phụ trước tính từ, đồng từ, biểu thị sự tiếp diễn của trạng thái, chưa có sự biến đổi, chưa chuyển sang trạng thái khác.

2. Biểu thị tính chất tạm thời của một việc làm trong khi chưa có gì khác, chưa có gì thay đổi.

3. Biểu thị ý yêu cầu có tính chất mệnh lệnh hoặc thuyết phục, động viên nên làm việc gì đó, nên có thái độ nào đó.

Trong ba nghĩa trên, dễ thấy là, nhà thơ nghiêng về phía nghĩa thứ ba.

Từ "hãy" là phó từ , đi kèm với động từ, tính từ để bổ sung ý nghĩa cho tính từ, động từ. Từ "hãy" cộng với lớp từ kêu gọi "cất cao lời thơ hùng vĩ, cất cao lời ru sầu xứ, cuồng nhiệt cho sóng triều trùng điệp, hăng say như vận tốc mặt trời, hãy ngàn khơi, bão tố cuồng phong", ...

Các nguồn năng lượng mạnh mẽ, rùng rùng đứng dậy: sóng, gió, mặt trời, ngàn khơi, cuồng phong, ngàn trượng dồn dập, đi tới, khiến cho bài thơ có điệu gấp, sáng bừng lên những hình ảnh về thiên thần, cánh hồng bay bổng, tiếng sáo ngà, những thiên nga vàng son đôi cánh, hỡi những thi sĩ, ngợi ca hài bảy dặm, xiềng xích trăm năm đừng ngân nữa sợi tơ trùng, đừng nhấn nữa phím tơ căng, nếu chỉ biết khóc than, niềm riêng tư bé bỏng ...

Chinh Văn sử dụng phương thức tu từ so sánh, so sánh dân tộc Việt với hai mươi bảy triệu mặt trời / đang đổ lửa / hôm nay / làm nên lịch sử / hỡi những bước chân đi / chuyển núi rung đồi / xanh ngắt vượt từng không / làm ngơ ngẩn loài chim chiền chiện / rẽ sóng mà đi / hỡi kình ngư / xé gió mà tung / hỡi cánh chim bão tố ...

Lời kêu gọi mạnh mẽ, hãy gào thét nung tinh thần bất khuất / hãy bước tới / chớ bao giờ ngờ vực / gió lên rồi / xé ngang trời / sạch không rác rếnh tanh hôi ...

Điều đặc sắc của Lời chim bão tố là vừa mãnh liệt vừa trữ tình, vừa cất cao lời thơ hùng vĩ lại vừa những thiên thần đẹp đẽ / những đàn con yêu mến quê hương / những chàng tóc xanh / thi sĩ của mặt trời ... Tính lưỡng phân này làm cho bài thơ hay, đẹp như cánh hồng bay bổng, như tiếng sáo ngà da diết thổi thâu đêm.

Trên Giữ thơm quê mẹ, số 9, tháng 3-1966, một bài thơ có niêm luật chặt chẽ, dài đến 82 câu, có tên Tiếng đêm. Nhân vật trữ tình xưng "tôi" trong bài thơ là sự hóa thân của tác giả: Tôi mở mắt / Tôi lắng im / Tôi đứng lại soi mình trong quạnh quẽ / trong cô tịch, tôi nghe tôi đằng hẵng / tôi núi đá đã vạn đời câm nín / tôi chẳng dám ngẩng đầu trông lên nữa / tôi chằng dám chờ mong dù đốm lửa / sợ cô đơn, tôi sợ cả câu chào / úp mặt xuống, tôi bước đi thờ thẩn / tôi thổ mộ khuya về trên phố vắng / kiếp đi hoang, tôi là gió không nhà / tôi núi đá đã vạn đời câm nín / nghe hải triều ngờ ngợ giấc bao la / tôi đâu biết, tôi chẳng hề hay biết / mở mắt nhìn tôi chợt thấy tôi đây / tôi đâu biết, tôi chằng hề chém giết / mũi súng nào chợt bay khói trên tay / tôi đứng đó, giữa tháng năm hờ hững / không biết nữa, vì đâu tôi ủy mị, ...

Thời khắc "đêm" của hồng thủy, phong ba, rắn rít, tha ma. tiếng gì tru tréo, của thú hay ma với "chẳng dám" , "không" và "tại", kéo dài suốt bài thơ, gây nên cảm giác quạnh quẽ, đờ đẫn, rũ rượi, phai tàn, cuồng điên. Chỉ hai câu thơ cuối cùng, khiến cho bài thơ sáng lại, nồng nàn:

đêm nay trời rộng sông dài

có con thuyển nhỏ chở hai đứa mình

Bài thơ như một phản ứng tâm lý của một người trẻ khi nhìn hiện thực có những gam màu tối. Người đọc có cảm giác như tác giả giằng xé nội tâm, sợ mình, sợ chung quanh mình, cứ loay hoay mãi, không tìm thấy lối ra, may sao có con thuyền nhỏ, vươn ra trời rộng sông dài.

Trong thơ Chinh Văn, Hợp tấu khúc mùa xanh, bài được tuyển chọn, in trong Tiếng hát những người đi tới, Tuyển tập thơ văn, Báo Thanh Niên, Báo Tuổi Trẻ, NXB Trẻ, 1993, dài đến 153 câu, 820 từ. Bài thơ này, đã đăng trên KẾT HỢP - Hội LHTNSVHS, Phong trào tự trị Đại học và trong Lời chim bão tố, 1967. Chủ đề bài thơ, lấy âm nhạc làm nền, trải ra một không gian rộng lớn, một thời gian dài thế kỷ, thế kỷ nhân loại đấu tranh cho khỏi những kiếp đời nô lệ, gọi mặt trời lên, thắp sáng niềm tin cho các dân tộc, vì hòa bình, cơm áo, tự do.  

Bài thơ có không gian rộng lớn, trên bốn đại dương, đây Bắc băng dương, đây Sahara, đây Nam Bắc Phi, đây Ấn Độ dương, đây đất Hy La, đây Châu Á, Trung Hoa, đây miền Á Phi, đây Châu Âu, Paris, ...

Mỗi đại lục, một tiếng đàn độc đáo. Mỗi đại dương, một giọng sáo du dương. 

Mở đầu bài thơ: Chỉ một lần / Trong giờ thiêng duy nhất / Mozart đã viết lên giòng thời gian / Những âm thanh đẹp nhất loài người ... Âm nhạc đã tấu lên rồi. Cứ thế, người nhạc trưởng tài hoa / Đã không ngừng vẽ lên không trung / Từng vòng đũa thép / Dẫn anh em ta đi quanh / Mọi vùng cuộc sống phì nhiêu, kể cả: Cát bỏng trùng trùng / cánh đồng nô lệ / người nhốt đầy bóng tối / từ đó:      

Việt Nam đứng lên rồi

Á Châu đứng lên rồi

Âu, Úc, Mỹ, Phi hãy góp triệu bàn chân

Việt Nam sắp vinh quang rồi

đó đây cũng náo nức vinh  quang

bài ca mới vỗ tay to mà hát

mặt trời lên trên những lời ca

mặt trời lên sáng chói màu da

làm sao chết dưới ánh ngày đẹp thế

Âu, Á, Mỹ, Phi dựng chung thế hệ

dựng lại tình người

xây lại ấm no

chúng tôi lắng im trăm năm rồi

nên cất được tiếng hát to

bốn bề năm châu hãy lên lời hòa điệu

Năm 1945, Việt Nam đốt lên ngọn đuốc soi đường, thì Maroc, Algérie, Tunisie, hãy còn đang say ngủ / mộng mị chiêm bao chếch choáng nhọc nhằn /  loài ác quỷ xông mê hồn dày đặc / chúng tôi kêu lên / kêu lên thất thanh / bóng tối cứ làm ngơ. Rồi 1965, hai mươi năm sau, mặt trời đã lên cao:

ôi biết bao nhiêu là bàn tay sạm nắng

biết bao nhiêu là hùng vĩ dưới trời xanh

bốn bề năm châu đã bão tố tung hoành

có muốn ngủ cũng không còn ngủ được

Cánh chim bão tố bay ra, sấm chớp tứ bề và trời đất bao la: cho ý nhạc tuyệt vời / cho lời ca tưng bừng âm sắc / cho trời xanh long lanh xanh trong mắt / cho bóng tối rùng mình / cho lang sói hãi kinh / cho uất hận bất bình biến thành sức mạnh / cho tình người ấm lạnh dắt dìu nhau

Bài thơ kết thúc bằng niềm tin:

sang mùa rồi

lúa đồng reo phơi phới

trời vào xuân

loài người mang áo mới

hạnh phúc về rồi, đó - ngày mai

hỡi các em tôi

bầy chim nhỏ tương lai

chân thoăn thoắt trên đường xanh cỏ mướt

em hãy biết rằng

mặt đất dưới chân em

mặt đất từng cho hoa thơm cỏ biếc

giòng suối xanh

vẫn âm thầm chảy miết

vào sông xanh

hòa biển xanh

làm xanh vút tận trời xanh.

Âm nhạc và màu sắc (đường xanh, giòng suối xanh, sông xanh, biển xanh, xanh vút tận trời xanh) hòa điệu làm nên cung bậc tình yêu, niềm tin cho bài thơ.

Thơ Chinh Văn nói chung, Hợp tấu khúc mùa xanh nói riêng, đã góp phần vào thành tựu đáng trân trọng của văn nghệ học sinh sinh viên các đô thị miền Nam trước 1975.

*

Thơ Chinh Văn, điều dễ thấy, đó là tiếng gọi đàn của loài chim trong cơn bão tố, là tiếng hát của lòng nhân ái, đấu tranh cho hạnh phúc con người, chống mọi sự áp bức, bóc lột, thể hiện khát vọng, tình yêu về hòa bình, thống nhất đất nước, một tiếng vọng thẳm sâu, đượm tinh thần nhân đạo.

Những dòng thơ Chinh Văn phản ánh chân dung, nhân cách của người nghệ sĩ Chinh Văn.

Tháng 9-2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm