TIN TỨC

Người giữ lại những vần thơ người nhất

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-10 07:33:51
mail facebook google pos stwis
1597 lượt xem

LÊ VĂN VỴ

Sinh ra bên dòng sông Ngàn Phố, huyện miền núi Hương Sơn, nhưng tuổi thơ Tuấn theo bố ra thành phố. Bố Tuấn, nhà báo Đinh Nho Liêm - TBT báo Nghệ Tĩnh và là nhà thơ với bút danh Minh Nho có nhiều đóng góp cho Thơ ca, báo chí Cánh mạng.


4 trong 5 tập thơ đã xuất bản của nhà thơ
Đinh Nho Tuấn

Tốt nghiệp THPT, Tuấn theo học Khoa Luật, Trường ĐH Tổng hợp quốc gia Odessa (1986-1991). Tháng 9/1993-9/1996, Tuấn là nghiên cứu sinh tại Trung tâm nghiên cứu quan hệ quốc tế kinh tế, chính trị, Học viện hàn lâm khoa học Moscow, Liên bang Nga và tiếp tục làm việc tại thành phố Moscow, Liên bang Nga 3 năm. Tháng 9/1999, Tuấn về TP Hồ Chí Minh, làm việc tại Khoa Luật quốc tế Trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh. Hai năm sau (2001), Tuấn trở lại LB Nga. Từ tháng 9/2003 đến nay Tuấn sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh.

Hiện nay, Tuấn là hội viên chuyên ngành Thơ, Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Những tác phẩm đã xuất bản: “Em hãy cho anh vội” (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2018); “Em tôi” (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2019); “Díu dan với núi sông” (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2020); “Ngàn tiếng đời ấp ủ” (Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2022). GS Phong Lê trong “Lời bạt” cho tập thơ ”Em hãy cho anh vội” nhận xét: “Tuấn đã tạo được một thế giới nghệ thuật riêng, đối với tôi là rất ấn tượng ở hồn thơ, giọng thơ không giống, không lẫn với bất cứ ai trong đội ngũ làm thơ hôm nay…”.

Năm 2022, Đinh Nho Tuấn được Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh tặng thưởng thơ.

Thật có lý khi nói rằng: Không phải Tuấn làm thơ mà thơ lựa chọn Tuấn để trao bút.  “Ngàn tiếng đời ấp ủ” bấy lâu nay đã tuôn trào cảm xúc, thăng hoa, gọi về lớp lớp sóng ngôn từ để cho ra đời 332 bài thơ với 4 tập thơ xuất hiện dày đặc chỉ trong 5 năm. Trong bài thơ “Xứ Nghệ”, Đinh Nho Tuấn đã phân thân nhập vai nhân vật trữ tình lạ lẫm và ngạc nhiên khi “xúc thơ từng đọi” :/ Anh ơi, chơ răng mà anh xúc thơ từng đọi/ Đổ xuống mùa em say cả ánh trăng rằm!/. Người thơ như người nông dân, “xúc… thơ” dễ dàng như người nông dân xúc lúa gạo.  Tuấn hồn nhiên làm thơ. “Những vần thơ cào xé” từ gan ruột máu thịt. Dấu vết tham dự của kỹ thuật cấu trúc bài thơ cũng như tổ chức khổ, câu dòng thơ không lộ diện. Hình như những câu thơ hồn nhiên tuôn chảy theo cảm xúc và khi nào cảm xúc không còn tuôn trào, bài thơ kết thúc. Do vậy, dòng, câu trong thơ Tuấn chủ yếu là vài chục câu trở lên, thậm chí có những bài trên 100 câu, như “Tổ quốc và tôi” 128 câu thơ và “Lễ cưới vui vẻ” 252 câu thơ. Điều đáng nói là những bài thơ trường thiên của Tuấn từ câu đầu tiên đến câu kết thúc vẫn tràn trề cảm xúc, không gây nên sự hụt hững trong lòng độc giả. Không có nội lực thơ mạnh mẽ, không thể tạo nên được thế giới thơ đa dạng, sinh động hấp dẫn!

Mặt khác, với Tuấn thơ là tinh lọc, làm thơ là “vót thơ”, viết những câu thơ bạc đầu” và “những câu thơ thít cổ ta rồi” không hề dễ dãi!

Những sóng thơ ào ạt tuôn chảy tràn ra những quy phạm, những khuôn mẫu tìm đến thể thơ trữ tình điệu nói tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau, nhịp điệu biến hóa mang hơi thở nhịp điệu của đời sống hiện sinh. Có một xứ Nghệ làm nên dòng chảy sông thơ Đinh Nho Tuấn. Dòng sông đó bắt nguồn từ Ngàn Phố, Ngàn Sâu chảy qua sông La, sông Lam, soi bóng Hồng Lĩnh, uốn lượn giữa những xóm làng trù mật, giữa đôi bờ ví dặm, ca trù mà nên duyên câu Kiều, lục bát, chảy mãi đến vô cùng, vô tận…

Quê Tuấn nằm bên tả ngạn sông Ngàn Phố, hạ Hương Sơn, vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Nhưng từ nhỏ, Tuấn theo cha ra rời làng ra phố. Tốt nghiệp THPT, Tuấn xa xứ, tu nghiệp ở Liên xô (cũ), trở về nước lập nghiệp ở TP Hồ Chí Minh, nên Tuấn cõng quê hương, xứ sở và mang hồn cốt quê hương suốt với hành trình. Do vậy, xứ Nghệ, quê hương là không gian ký ức, sâu đậm, ám ảnh, sống động với những đối nghịch: vừa hùng vĩ vừa hiểm trở; vừa thơ mộng vừa khắc nghiệt; vừa tĩnh, vừa động; vừa tồn tại vừa phát triển; vừa mất vừa còn vừa khoảnh khắc vừa vĩnh cửu; vừa đi qua chiến tranh, tang tóc, hòa bình đã đến nhưng hạnh phúc còn là một hành trình…Ở đấy, núi Hồng sông La, Tam Soa, Giang Đình vv… không chỉ là địa danh thiên nhiên mà còn là tâm thức văn hóa, tâm linh, là thơ ca nhạc họa được sinh ra, nuôi dưỡng bởi con người: /Núi làm cha/Đất làm mẹ/Cha mẹ sinh ra dòng sông con người/(Quê hương).

Có một Hồng Lĩnh rất khác biệt trong thơ Tuấn:/Hồng Lĩnh chôn chân không trốn chạy/Núi nhấp nhô đánh võng trú bên trời/(Quê hương) và xứ sở “chảo lửa túi mưa”,  nắng nóng: “ hững con đường khạc lửa”; “bão chồng bão, lũ chồng lũ” hiện lên ám ảnh trong thơ Tuấn: /Những con sông không uống dùm hết nước/Thương sông Lam chết đuối cả trong vườn/ (Quê hương - Díu dan với núi sông).

Trong sự biến thiên của lịch sử, vô thủy, vô chung của thời gian, QUÊ với Tuấn là LÀNG; LÀNG QUÊ, chứa đựng biết bao vỉa tầng văn hóa; là cõi đi về, vừa cố hữu vừa thay đổi với số phận gắn chặt với số phận con người. Những con người xứ Nghệ mang những tính cách đối nghịch, ranh giới thật mong manh giữa cách tân và bảo thủ; anh hùng và ương gàn; quyết liệt và liều lĩnh; lạnh lùng và nồng ấm; hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa tinh tế nhận xét: ”Đặc sắc của xứ Nghệ là người Nghệ. Đặc sản xứ Nghệ cũng là người Nghệ. Tôi và anh trai; nhà thơ Trần Nhuận Minh, mỗi lần đi qua cầu Bến Thủy bao giờ cũng ngã mũ, vì bên kia sừng sững 99 ngọn Hồng Lĩnh, là thông Ngàn Hống với những Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…”.

Trong thơ Đinh Nho Tuấn có người Nghệ ở lại và người Nghệ ra đi. Người Nghệ ở lại không chỉ là những người thân yêu, ruột thịt: ông, bà, cha mẹ, chị em, con cháu mà còn là những người vô danh, những người đã khuất linh hồn họ hóa vào làng quê, đồng ruộng, sông núi.  Những người nhà quê đối mặt với chiến tranh, tang tóc, với bão lũ, với thiên nhiên nghiệt ngã, với nghèo đói và trong họ ánh lên những vẻ đẹp kiên trì, bền bỉ, ân tình, ân nghĩa, chịu thương, chịu khó, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng chưa bao giờ nguôi tắt ngọn lửa của khát vọng. Họ là nguồn cội, hồn cốt, khát vọng của quê hương. Nỗi nhớ của Tuấn về họ thật là khác biệt:

Có nỗi nhớ đè ta như hòn đá

Dằn lên ta trong vại nhút người ơi!

(Quê hương)

Nỗi nhớ sâu nặng ấy đã giúp Tuấn viết được những câu thơ hay rất thân phận. Đây là hình ảnh “Giữa trưa hè cha tôi bổ củi”: /Bổ xuống nhấc lên lưỡi rìu bóng loáng/ Đời cha tôi sét rỉ dưới lưỡi rìu/. Còn đây là thân phận chị tôi lấy chồng: “duyên tình trà trộn”, “ ép giày vẹt mòn” “lí lắc rơi”:/ Đêm đêm nằm nghe tiếng cuốc kêu bỏ vợ/ Đêm đêm nằm nghe lũ gà mái chồn chân khiếp chồng/ (Chị tôi) mà nổi da gà, sởn ốc, lạnh gáy trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ mỏng duyên ở làng quê!

Nhưng có lẽ Tuấn đã dành những vần thơ ám ảnh cho những người nông dân, và những người tri thức ở làng quê. Những người “phận người như lá chuối”, “xanh như da bưởi”, “mười ngón tay” tua tủa ngọn khoai:

Đội mưa nắng cả khi ở trong nhà

Củ khoai quả cà làm nên vóc dáng

(Quê hương)

Những người“dân thường”, thân phận “con ong cái kiến”, là hạt cát bãi sông, khoai sắn ngoài đồng, bầu bí rau cà ngoài vườn, chắt chiu, lam lũ, cần mẫn, chịu thương chịu khó, ân tình, ân nghĩa, nhưng khi giặc ngoại xâm đến xâm phạm bờ cõi mang sức mạnh khác thường của lòng yêu nước: /Gộp cốt xương cao hơn Trường Sơn/ Gộp máu đào chảy tràn hơn sông Hồng mùa lũ/Gộp đau thương quằn lên lịch sử/ để cho: “Bốn ngàn năm đứng thẳng trường tồn”. Người nông dân Nghệ tằn tiện chắt lót nhằm“hy sinh đời bố, củng cố đời con”như một lẽ sống. Bài thơ “Quà quê” kể chuyện đứa cháu từ quê, khăn gói, mang theo can rượu, bịch kẹo cu đơ vào Sài Gòn thăm dượng với khao khát:/Bỏ nhà đi vào dượng/ Tìm mưu kế sinh nhai/ Quyết cứu mấy đứa nhỏ/ Không như bố sau này/, mặc dầu làng quê giờ đã nông thôn mới, nhưng thân phận của người nông dân vẫn quăng quật bươn chải, lăn lóc sang Lào “buôn gỗ”, “nấu rượu cả ngày”, chăn  vịt: ”Lơ thơ mấy lều hoang”mà vẫn không thoát nghèo. Đinh Nho Tuấn đã nhìn thẳng sự thật, có những phản biện bằng thơ đáng suy ngẫm. Bài thơ kết lại hình ảnh hai dượng cháu thưởng thức “Quà quê” đơn giản mà rưng rưng xúc động bởi ân tình, ân nghĩa của người nhà quê: /Cu đơ thơm mùi mía/ Hạt lạc đồng sơn khê/ Bánh tráng giòn hơn pháo/ Tròn trịa vành trăng quê/.

Những người tri thức xứ Nghệ là niềm tự hào của non nước Hồng Lam. Những Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu, Huy Cận…đó là những thi sĩ đã dọn những bữa tiệc thi ca không chỉ cho các thế hệ người Việt mà còn của nhân loại. Trong thơ Tuấn, hình ảnh những ông giáo “đồ gàn xứ Nghệ” đã truyền cảm hứng cho bao thế hệ học sinh:

Bút nghiên lặng thầm ngàn sâu dâu bể

Quê hương lặng thầm, phấn bảng hát ru

(Mái tóc thu đổ- Em tôi)

Những thế hệ học sinh, bạn bè của Tuấn “dùi mài kinh sử”, “học gạo” để mong mỏi “kiếm cần câu cơm”. Những vần thơ hồi ức về bạn bè một thuở đã vượt lên đói nghèo vật chất, cơm áo gạo tiền để nuôi giấc mộng đèn sách, ôm chí lớn thành người.

Rau dưa là cái bút nghiên

Còn thêm gia vị đã nghiền thơ ra

Mắm tôm là cái dân ca

Còn thêm trái ớt ấy là tản văn

(Uống ta - Em tôi)

Mảng thơ viết về người xứ Nghệ ra đi trong hành trình hội nhập với đất nước nhân dân là mảng thành công của Tuấn. Không chỉ thời đèn sách mà sau này lập thân, lập nghiệp, Tuấn vẫn bôn ba xứ người. Vì vậy, bao nhiêu tính cách, hồn cốt người Nghệ được thể hiện ở hình tượng nhân vật trữ tình với muôn vàn sắc điệu khác nhau mà chẳng thể nào lẫn được. “Người Nghệ” là bài thơ tự do thành công của Tuấn. Với giọng điệu trữ tình điệu nói, ngôn ngữ đặc Nghệ, hìnhảnh câu chữ từng vỉa, từng tảng như khắc như chạm, ngòi bút của Tuấn đã “cá biệt hóa” tính cách Nghệ. Người Nghệ có mặt khắp nơi, gặp người Nghệ không bình thường mà khác thường “húc” vào người Nghệ, như trâu bò “húc” vào nhau. Tính cách Nghệ khác thường “Ăn”, “Nói”, “Làm”, “Yêu” đều “phăm phăm” như ngựa tung bờm, trên hành trình bất chấp mọi trở lực. Điệp từ, điệp cấu trúc, nhịp thơ dứt khoát câu thơ ngắn gọn, như “đinh đóng cột” khẳng định tính cách khác biệt của người Nghệ. Đinh Nho Tuấn đã quan sát tinh tế từng hànhđộng, điệu bộ, cử chỉ và pha chút tếu táo bằng những hìnhảnh phóng đại: /bắt tay ngỡ bẻ xương/ cười đôi khi ướt bạn/ bộc lộ ranh giới giữa bên này là thẳng thắn chân tình bên kia là thô vụng. Tính cách Nghệ “làm hết ga, chơi tới bến, yêu tận cùng”/ Yêu chi yêu dập yêu vùi/ Ghét chi phang thẳng đến đui, đến què/. Nhưng cá biệt đến mức “xả láng”: / Hết tiền tiêu cắm cả thơ Xuân Diệu/ Ngày xông xênh giở Huy Cận làm mồi/ thì trên trái đất này không  có ở mô có giống người như người Nghệ. Thú thực tôi khoái nhất 4 câu thơ sau của Tuấn: /Vác ví dặm/ Ngâm bốn phương/ Cõng nàng Kiều/ Đi tán gái/ nhìn bề ngoài hình ảnh câu chữ có gì đó thô kệch của gã đàn ông hám gái nhưng lắng lại, ngẫm kỹ không tầm thường chút nào, bởi Kiều “nghiêng nước nghiêng thành”, tài đàn, tài thơ, trung hiếu vẹn toàn “mười phân vẹn mười ” thì “cõng Kiều đi tán gái” không phải là người thường rồi. Điều này được xác tín bởi sinh thời, Nguyễn Du về ở ẩn ở Tiên Điền đã cùng bè bạn “xăm xăm đè nẻo” Trường Lưu, Can Lộc, hát ví với thập nhị mỹ nhân phường vải Trường Lưu đó sao?

Trong hành trình hội nhập với đất nước, nhân dân với nhân loại, Đinh Nho Tuấn đã hun đúc tình yêu đất nước, quê hương, nhất là trước những biến cố ở biển Đông hay Coovid 19, “ăng ten thơ” Đinh Nho Tuấn nhạy bén đập nhịp đập cùng đất nước, thời đại. Tuấn đã viết “những vần thơ cào xé” “Những hòn đảo Tổ quốc” -   “Ngàn tiếng đời ấp ủ”:

Nếu biết đi, những hòn đảo quê hương

Sẽ hội nghị Diên Hồng trên biển rộng

Tuấn trưởng thành và tình yêu đất nước trong Tuấn lý trí, thẳm sâu, gắn liền với trách nhiệm công dân.

Tuấn đã phát triển đến đỉnh cao hồn cốt Nghệ và trên hành trình tận cùng bản sắc dân tộc, Tuấn gặp nhân loại. Cũng như vậy, soi vào nhân loại vào các dân tộc khác, Tuấn đã thức dậy, bổ sung làm giàu có bản sắc văn hóa Nghệ. Chỉ cần một âm thanh, một hình ảnh về quê hương đã đánh thức trong Tuấn cả nỗi nhớ vô tận. Tôi muốn dừng lại ở bài “Khói rơm”. Một bài thơ 5 chữ phảng phất giặm vè xứ Nghệ. Trong 74 bài thơ 5 chữ, “Quà quê” và “Khói rơm” là 2 tác phẩm đặc sắc. Nếu quà quê thân phận, thì “Khói rơm” bay bổng, tràn đầy chất thi sĩ. Những làn khói đốt rơm rạ bay là là vào thành phố, đã khơi dậy biết bao ký ức về làng quê. Tôi yêu vô cùng bức tranh quê mà Tuấn vẽ ra trong ký ức: // Ô hay trong sương khói/ Thấy đàn trâu ra đồng/ Con đê lười nằm nghỉ/ Tiếng sáo diều thinh không// Ô hay trong sương khói/ Mẹ nhen lửa lá ngô/ Nước chè lên xanh ngắt/ Con giếc quẫy mặt hồ// Ô hay, trong sương khói/ Ễnh ương rúc tù và/ Nỉ non buồn lũ dế/ Rô đồng vẫy đuôi xa//

Chính bản sắc văn hóa đã giúp Tuấn hòa nhập chứ không hòa tan. Những năm tháng học ở Liên Xô (cũ), Tuấn đã mang văn hóa Hồng La hòa nhập với văn hóa Slavơ. Có một chi tiết thú vị là người yêu và sau này là người bạn đời của Tuấn có tên Việt là Lê Nghiêm và tên Nga là Lê Na. Lê Nghiêm - Lê Na với trái tim thắp lửa đã sưởi ấm tâm hồn Tuấn đi qua mùa đông tuyết trắng, băng giá xứ người.

Tuấn ao ước, con cò ca dao, dân ca nước Việt thân yêu sẽ sải cánh cùng “Đàn sếu” thơ Rasul Gamzatov. Không phải con cò thơ nào cũng cùng hành trình với đàn sếu thi ca Nga. Nhưng có những con cò trắng thơ Đinh Nho Tuấn đã hòa nhập với “Đàn sếu” thơ ca Nga. Không vui sao được!?

Hà Tĩnh 11/6/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm