TIN TỨC

Đỗ Lai Thúy – một con đường phê bình văn học

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-11 23:54:14
mail facebook google pos stwis
3076 lượt xem

Có một thứ tình yêu đi theo Đỗ Lai Thúy tự thủy chí chung, đó là tình yêu đối với văn học. Thuở bé ngay từ khi mới biết chữ, ông đã say mê đọc thơ, rồi kiếm hiệp, để rồi nhiễm vào máu tình yêu văn chương và cá tính phiêu du tung hoành. Suốt thời đại học và thời lính, những gì ông tâm huyết đều gắn bó với văn. Tốt nghiệp cử nhân Nga văn, nối tiếp là mười năm quân ngũ cuốn theo tuổi thanh xuân. Khi trở về, ông lại truân chuyên tròng trành: làm thơ, viết kịch, dịch với nhiều vỡ mộng. Nàng thơ bị xé cánh, viết kịch bị hạ màn, dịch thơ thì cũng bị “xê dịch” tên người dịch. Lối đi nào cho Đỗ Lai Thúy là câu hỏi về sự tồn tại cần được trả lời. Cuối cùng, như một câu trả lời mang tính mặc khải, Đỗ Lai Thúy tìm thấy bản mệnh của mình ở phê bình văn học. Một sự phát ngôn của những chất chồng. Phê bình văn học thậm chí đến với ông như một cơ duyên ép buộc (“một cùng đường, khi mọi phương án văn học đời người bị phá sản”).(1)

Nhà văn Đỗ Lai Thúy

Ở Việt Nam thời bấy giờ và thậm chí bây giờ, vẫn còn tồn tại một lí lẽ ấu trĩ xưa cũ theo kiểu nghề nghiệp đáp ứng phù hợp xuất phát điểm, hay xuất phát điểm quy định nghề nghiệp, tức là làm sử thì phải tốt nghiệp khoa sử, làm văn thì phải học từ khoa văn, cũng là một dạng lí lịch chủ nghĩa. Ai tay trái tạt ngang, ắt bị xem là “ngoại đạo”, phi chính thống, không có bài bản mô phạm chính quy. Nếu phải được/bị xếp loại dựa trên xuất xứ hay nơi công tác thì Đỗ Lai Thúy theo một độc hành đạo, không thuộc hệ nào. Bởi vậy nên bước chân vào phê bình văn học, ngoài những tán dương thì ông cũng phải chịu không ít búa rìu từ các môn đồ chính phái. Song, tâm thế ngoại vi thiểu số trong một rừng cây trung tâm này không khiến ông lạc giữa ma trận khu rừng. Đứng ở ngoài rừng nhìn toàn cảnh, vào rừng, ra khỏi rừng và thấu rừng. Nhờ sự độc lập về tư tưởng và môi trường làm việc của mình, Đỗ Lai Thúy tự do tiếp xúc và tiếp thu mọi lí thuyết, không vấp phải sự ràng buộc kìm hãm nào. Tuy không phải là môn đệ chính quy từ một chân sư, ông lại được tầm sư học đạo từ nhiều chân sư bởi sự cầu thị của mình. Và không chỉ là những người tiền bối, người anh, người bạn, mà còn là những học giả vĩ đại của thế giới thông qua sách vở, uống nước tận nguồn. Đi từ tiếp nhận lí thuyết phương Tây, nhưng với một cái nhìn nghiêng, Đỗ Lai Thúy cho phép mình có sự lệch chuẩn để thám mã triệt để và thấu tường các hiện tượng văn học Việt Nam. Chiếc chìa khóa đầu tiên được ông sử dụng chính là phân tâm học (psychoanalysis), cụ thể hơn là phê bình phân tâm học (psychoanalytic literary criticism).

Hẳn Đỗ Lai Thúy rất đồng cảm với phân tâm học, vì ngay từ khi xuất hiện với tư cách là một thực hành lâm sàng, nó đã phải gánh chịu nhiều chỉ trích. Thậm chí khi Sigmund Freud đưa phân tâm học trở thành một học thuyết, thì nó bị hoài nghi là một “ngụy khoa học” (pseudoscience), đuổi hình bắt ma, đưa con người văn minh quay trở về với bản năng của động vật man dã. Phê bình phân tâm học, cũng phải tới Charles Mauron mới được định danh và xác lập cho nó một phương pháp – xếp chồng văn bản để tìm những ẩn dụ ám ảnh và mạng lưới những liên tưởng cộng hưởng, để đích đến là “huyền thoại cá nhân” (le mythe personnel). Đến Việt Nam, có Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu các trường hợp văn học trong nước, như Truyện Kiều của Nguyễn Du và thơ Hồ Xuân Hương, nhưng chủ yếu dựa trên mô hình của học thuyết Freud thuần túy còn cứng nhắc và mô phạm, dẫn đến chuyện đi ngược, dùng trường hợp minh họa chứng minh tính đúng đắn phổ quát của lí thuyết. Đỗ Lai Thúy, bên cạnh xương sống lí thuyết Freud, còn học hỏi thêm “chân kinh” từ các tổ sư phân tâm khác như Carl Jung, Gaston Bachelard, Jacques Lacan…(2) và đưa ra tiếp cận phù hợp với đối tượng phù hợp. Tập tiểu luận Bút pháp của ham muốn(3) là đỉnh Hoa Sơn nơi ông xuất chiêu võ môn của mình. Từ Freud ông sử dụng bản năng chết (todestrieb/ thanatos) và phức cảm Oedipus để lần lượt giải quyết trường hợp thơ Bà Huyện Thanh Quan và Hoàng Cầm, hay ẩn ức đồng tính của Xuân Diệu và rối loạn đa nhân cách (gần đây có tên gọi mới là rối loạn tách rời nhận thức/ dissociative identity disorder) của Chế Lan Viên. Đặc biệt với trường hợp Hồ Xuân Hương(4), ông từ bỏ dồn nén tình dục để đi tới một tầm cao mới: tín ngưỡng phồn thực. Ông nhìn thơ Hồ Xuân Hương từ một góc độ mới mẻ là văn hóa dân gian và tín ngưỡng phồn thực, trên cơ sở siêu mẫu (archetype) của Jung, nhưng đồng thời là một bước tiến gần hơn đến cách tiếp cận nhân học văn hóa. Toàn bộ các bài viết và công trình nghiên cứu phân tâm học của Đỗ Lai Thúy phản ánh một sự vận động nội tại của ông trong việc sử dụng lí thuyết, ban đầu trên cơ sở văn bản, đã mở rộng ra cả tiểu sử và phê bình phân tâm học tiếp nhận/ người đọc.

Trừ Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực là luận án và Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa là đề tài cấp bộ, các cuốn sách còn lại của Đỗ Lai Thúy đều là cái viết cho mình. Viết cho mình, viết bởi nhu cầu nội sinh và nội lực bản thân. Khác với “viết đề tài, dự án” và “viết mưu sinh”. Sách Đỗ Lai Thúy viết ra nhận được sự quan tâm của bạn đọc hàn lâm lẫn đại chúng, có nhiều ngợi khen và ý kiến trái chiều, cũng là một niềm vui lớn lao đối với ông, bên cạnh sự thỏa mãn về sáng tạo học thuật.

Ở Đỗ Lai Thúy, ngoài tiếp nhận lí thuyết, còn là một tham vọng lập thuyết, xây dựng một mô hình lí thuyết để vận dụng cho đối tượng nghiên cứu, xác lập tính đúng đắn và quy luật của nó. Điều này khó, đặc biệt ở Việt Nam, khi xu hướng phần lớn “đo ni đóng giày” lí thuyết nước ngoài cho vừa vặn với bối cảnh địa phương, rập khuôn và thiếu sự cải biến. Hai chuyên luận mang tầm đại tác phẩm (magnum opus) của ông, theo người viết bài này, chính là Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa và Thơ như là mĩ học của cái Khác. Cả hai công trình đều lấy hệ hình (paradigm) và hậu hiện đại (postmodernism) làm chủ điểm xuyên suốt. Đọc Đỗ Lai Thúy, có thể thấy hai từ khóa này xuất hiện trong nhiều bài viết và tiểu luận của ông với tần suất lớn.

Nếu nghiên cứu đối tượng dựa trên phân kì, dễ thường có xu hướng lựa chọn nghiên cứu cái “đỉnh cao” ưu trội của nó, giống cái cách người ta thường quan niệm Aristotle, Thomas Aquinas và Immanuel Kant là ba đỉnh Mont Blanc của triết học Âu châu. Nhưng nghiên cứu theo hệ hình của Đỗ Lai Thúy lại chú trọng vào những “đột khởi”, nhân tố bắt đầu và bước ngoặt, tạo dựng nên cả một thời đại, trường phái hay trào lưu sau đó. Thoạt nhìn ngôi nhà, ai cũng nhìn thấy nóc, nhưng nếu không có móng, ắt không có nhà. Bởi vậy, trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam, ông tìm thấy tư cách con người đột khởi ở Trần Dần, Lê Đạt, mở đầu cho hệ hình hiện đại về thơ, tạo tiền đề cho bước chuyển sang hậu hiện đại. Sự nhấn mạnh đột khởi như vậy, trùng lặp và chồng lấp cùng với ý chí lập thuyết của Đỗ Lai Thúy. Bản thân ông, khi đưa phạm trù “cái Khác” làm chìa khóa chủ đạo trong chuyên luận Thơ như là mĩ học của cái Khác của mình, không hề giấu giếm một nỗ lực lập thuyết táo bạo cận triết học.(5) Ông đưa ra ba hệ hình với ba mĩ học tương ứng: tiền hiện đại là mĩ học của cái đẹp, hiện đại là mĩ học của cái siêu tuyệt, hậu hiện đại là mĩ học của cái Khác; và sự chuyển đổi ngôn ngữ: nghĩa _> chữ (từ nghĩa đến chữ), chữ _> nghĩa (từ chữ đến nghĩa) và chữ <_> nghĩa (từ chữ đến nghĩa/ từ nghĩa đến chữ). Nó phù hợp với quan điểm cho rằng không hề có sự phân chia cấp bậc cao thấp (theo các học giả trường phái hậu hiện đại) hay dựa vào một chuẩn mực so sánh duy nhất (theo các nhà nhân học như Franz Boas, E.vans-Pritchard, Claude Lévi-Strauss) mà chỉ có khác biệt, và hơn thế nữa, đẩy lên một mức độ mới, khác chính trong nội tại của nó (A khác với chính A). Dưới sự soi chiếu của lí thuyết hệ hình và phạm trù “cái Khác”, hành trình phát triển của thơ ca Việt Nam sáng tỏ hơn bao giờ hết.

Kết quả của sự cụ thể hóa tư tưởng hệ hình trong nghiên cứu trường hợp thơ Việt Nam của Đỗ Lai Thúy là bộ ba chuyên luận, với khởi đầu là Con mắt thơ (phê bình phong cách Thơ mới)(6), đỉnh nóc là Thơ như là mĩ học của cái Khác, mái còn lại là Hé gương cho người đọc(7). Nếu như Con mắt thơ nói về cuộc cách mạng Thơ mới – hành trình của cái tôi đã đưa thơ Việt từ trung đại sang hiện đại, từ khu vực ra thế giới, với những chân dung người thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Bích Khê…, thì Hé gương cho người đọc được mở rộng viễn kiến về thi ca trung đại Việt Nam với những Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Dương Khuê đến Tú Xương, Tản Đà… Và như một viên ngọc đính vòm, Thơ rìa mắt (“Mắt thơ” ngoại tập)(8) là công trình mãn khai tựu thành bộ Mắt thơ cũng như con đường nghiên cứu về thơ của Đỗ Lai Thúy. Điểm nổi bật trong Thơ rìa mắt là nhà phê bình đã tiếp cận lại những trường hợp thơ Việt Nam hiện đại sau 1986, đó là một Trương Đăng Dung với bề sâu triết học và lí tưởng cái tôi thi sĩ sang trọng, một Mai Văn Phấn với cấu trúc thi nghiệp thể nghiệm để trở về văn hóa nguồn cội và bước tiếp, một Nguyễn Quang Thiều bước sang hậu hiện đại với thơ làm bằng trí nhớ thị giác…

Đỗ Lai Thúy khẳng định sự tồn tại của mình thông qua những công trình. Con đường phê bình của Đỗ Lai Thúy rộng mở như một đại lộ.

Phạm Minh Quân/VNQĐ

——–

1. Xem thêm: PGS.TS Đỗ Lai Thúy: “Tôi đứng về phe… cái khác”, Hoàng Đăng Khoa thực hiện, tạp chí Văn nghệ Quân đội số 885 (cuối tháng 1/2018).

2. Ngoài tiếp thu, Đỗ Lai Thúy còn tổ chức biên soạn và giới thiệu lí thuyết của các nhà phân tâm học này thông qua bộ sách: Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Phân tâm học và tình yêu, Phân tâm học và tính cách dân tộc.

3. Xem: Đỗ Lai Thúy, Bút pháp của ham muốn, Nxb Tri thức, 2009.

4. Xem: Đỗ Lai Thúy, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999; Nxb Văn học, 2010.

5. Xem: Đỗ Lai Thúy, Thơ như là mĩ học của cái Khác, Nxb Hội Nhà văn, 2012.

6. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ (phê bình phong cách Thơ mới), Nxb Lao động, 1992, 1994; Nxb Giáo dục, 1997; Nxb Văn hóa Thông tin, 2000; Nxb Hội Nhà văn, 2012.

7. Đỗ Lai Thúy, Hé gương cho người đọc, Nxb Phụ nữ, 2015.

8. Đỗ Lai Thúy, Thơ rìa mắt, Nxb Hội Nhà văn, 2021.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm