TIN TỨC

Đỗ Nam Cao câu thơ làm mát khoảng trời chiến tranh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-29 06:49:12
mail facebook google pos stwis
1640 lượt xem

Nhà thơ NGUYỄN VŨ QUỲNH

Tôi đã đọc tập thơ CÁNH CÒ LỬA của nhà thơ Đỗ Nam Cao anh viết từ thời 1970 – 1980. Đó là những năm tháng anh là người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ giải phóng. Được biết anh cùng thời đi B với các nhà thơ Văn Lê, Trần Mạnh Hảo... Đó là thời điểm tạo nên những viên ngọc quý của văn học miền Đông Nam bộ trong cuộc kháng chiến. Rời ghế trường đại học Tổng hợp Hà Nội, cử nhân văn khoa Đỗ Nam Cao cùng bạn bè vào thẳng Tây Ninh, xuống Trảng Bàng, Củ Chi, Bình Dương. Là người cùng vào trận để ghi chép cuộc chiến đấu của quân và dân ta bằng những trang văn, bài báo, những kí sự chiến tranh giải phóng và nhất là những tác phẩm thơ. Bước chân giải phóng đã làm cho cuộc sống nơi chiến trường dịu bớt đi những căng thẳng nặng nề. Những chiến sĩ văn nghệ giải phóng thời ấy đã tạo nên bức tranh thơ sống động hiện thực, phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh làm tăng thêm động lực chiến đấu cho quân dân ta trong thời khắc nghiệt. Anh đã ví thân phận mình như cánh cò lửa bay trên bầu trời kháng chiến, làm sáng nên những vần thơ xốn xao rung động lòng người. Làm cho tâm trí của tôi hôm nay ở đây càng nhớ về thời tuổi trẻ một thời cùng ra trận đã qua.


Nhà thơ Đỗ Nam Cao

Năm 1973 anh đã viết bài Cánh cò lửa: Vẫn con cò của ca dao/ Con cò lặn lội bờ ao ướt mình. Rồi: Xa trông như đốm lửa bùng/ Cánh con cò cháy rực vùng trời cao. Và như chợt thấy chiều ở đây: Ngẩn ngơ một cánh cò bay đỏ trời/ Ơi con cò của lòng người/ Ngàn năm quen lại khiến đời xôn xao/ Xuồng đi mây ửng ngọn sào/ Tôi mang đôi cánh lửa vào tiền phương… Ở đây cánh cò trong ca dao, dân ca chỉ là: Cánh cò bay lả bay la/ Bay từ ruộng lúa bay ra cánh đồng. Hay: Con cò bắt tép bờ sông /Sao mày ăn trộm lúa ông hỡi cò… Cánh cò ngày ấy trong Đỗ Nam Cao là cánh cò thơ chất chứa nhiệt huyết tinh thần làm đỏ rực bầu trời, là ý chí đời người đi vào tiền phương trên trận tuyến chống quân thù. Hình tượng cánh cò lửa của khao khát tự do độc lập cho dân tộc, là biểu trưng phẩm giá con người, là tiếng nói của thơ ca vang vọng bay xa khẳng định vị thế của người chiến sĩ cầm bút trên mặt trận văn hóa văn nghệ.

Cánh cò lửa bay vào tiền phương ấy, bắt đầu từ bài thơ Mùa thu chia tay, khác hẳn những cuộc chia tay như thường lệ, không ồn ào náo nhiệt mà lặng lẽ lạ thường đưới ngòi bút Đỗ Nam Cao. Như thế đấy em ơi ta xa nhau bây giờ/ Đau khi đất nước đang còn chảy máu/ Mạnh như Tổ quốc đang giờ chiến đấu/ Trăng dội xuống chỗ mình những ánh ban đêm… Sao lại không những ánh trăng đêm, sao đêm mà những ánh ban đêm. Ánh ban đêm ấy chứa đựng nỗi niềm gì đây? Có khi dễ dẫn đến cuộc chia li không bao giờ trở lại bởi cuộc chiến tranh đâu phải trò đùa.

Cũng năm 1973 giữa cái thời buổi tranh tối tranh sáng, giành giật với phía bên kia từng tấc đất. Anh đã nghĩ đến ngày toàn thắng để nhân dân xây dựng đất nước mình hơn mười ngày xưa. Tại thị trấn Lộc Ninh, Đỗ Nam Cao có dịp đã nghe tiếng gõ bay của người thợ xây và cũng từ giây phút ấy, tiếng thơ anh lan tỏa trong suy tư tâm tưởng đến ngày toàn thắng. Chỉ những tiếng gõ ấy thôi mà khát vọng ước ao mau thành hiện thực đến ngày hòa bình sẽ có những tiếng gõ trên những công trình ở phố phường làng quê. Một dự báo lạc quan,niềm tin của của người trong cuộc chiến:

Ôi thích biết bao tôi thành con trẻ/Tiếng trái tim nghe gõ nhịp lanh canh/Tiếng của tương lai thường là rất khỏe/Tiếng bay đập lên mặt gạch nung già/. Tiếng gõ bên này canh canh nhà trẻ/ Tiếng gõ bên kia xưởng máy đầu tiên/ Tiếng gõ vội bên nhà đỡ đẻ/ Tiếng gõ bốn bề thành phố hiện lên. Thế đấy trong chiến tranh nhà thơ đã lắng nghe được tiếng bay người thợ xây sẽ vang vọng trên những công trình, những đô thị tương lai. Đó là những dự đoán sắp trở thành hiện thực của thi ca và điều đó đã trở thành hiện thực.

Từ chiến khu Tây Ninh, Đỗ Nam Cao đã về đến sông Sài Gòn, không phải con sông tắm mát cả một thời trai trẻ của ông mà con sông ấy, ông phải lặn lội những năm tháng tuổi trẻ gian khổ mới đến được. Đi qua bao nhiêu mất mát đau thương mới tận tay vốc lên giọt nước dòng sông chảy về thành phố Sài Gòn mà nhà thơ yêu quý qua sách vở địa lí đã học. Bây giờ mới tới tận nơi nhìn qua mênh mông bát ngát, thấy nơi Bác Hồ đi tìm đường cứu nước. Phải chiến đấu để trở về bên thành phố dòng sông và nỗi nhớ này. Thành phố tôi yêu ở cuối dòng sông/ Mũi con thuyền xé nước sang ngang/ Hong ráng chiều con cò bay dọc/ Trong ráng chiều đỏ rực/ : Nước trong như vầy/ Nước mát lạnh tay/ Vốc lên xoa vào rát mặt/ Con thuyền giấy tuổi thơ/ Cháy bùng lên khát vọng/ Nước cứ bồn chồn/ Nước chảy ướt tay tôi. Và: Ta đạp lên toàn vòng gai thép giặc/ Vẫn cứ nghe rì rầm mạch nước dười bàn chân…

Đến với bài thơ Đi ngược cơn mưa. Ta đủ thấy con đường vào thành phố chiến tranh chông gai biết bao hiểm nguy: Gió ném mưa bay vào rát mặt/ Hướng con đường không nhìn rõ được/ Cứ nghe gió nghe mưa đập vào rát ngực/ Là nhận ra hướng của đường này. Thế đấy. Cùng đi ngược chiều với cơn mưa ấy, anh lại nghĩ về quê cái thời bên cha, bên mẹ: Mưa ở quê nhà có mái rạ vàng che/ Còn hơi ấm nồng nàn cha mẹ/ Mưa ở chiến trường hào hứng thế/ Đi ngược cơn mưa vào trận đánh hôm nay. Cơn mưa ngược chiều quất vào da vào thịt những đau đớn về thể xác nhưng trong tâm trí sâu xa người chiến sĩ văn nghệ, vẫn nghĩ về quê hương cha mẹ. Anh nghĩ về trận đánh sắp xẩy ra và những mất mát hi sinh khó lường trước hòn tên mũi đạn. Bài thơ Thư gửi bạn người đồng đội hy sinh trong trận đánh: Giọt sương đêm bé cỏn con/ Lật trong búi cỏ cùng hồn của ta/ Thương về một khoảng trời xa/ Một quầng lửa cháy là Khoa với mình…

Bài thơ Những căn hầm bí mật. Nhà thơ Đỗ Nam Cao viết bài thơ này vào năm 1974 ở Trảng Bàng - Củ Chi vùng ven đô Sài Gòn. Bài thơ đặc tả nổi buồn chiến tranh tàn khốc, sự sống trong lòng đất chật hẹp nhưng bao la tình người như cố nhà thơ Dương Hương Ly từng viết: ”Nơi hầm tối là nơi sáng nhất/ Nơi con tìm ra sức mạnh Việt Nam”. Thì Đỗ Nam Cao đã viết: Đất nước bốn ngàn năm lịch sử/ Trở mũi gươm rạch vào ngực kẻ thù/ Một đường thẳng vút lên/ Từ sôi sục phía trên/ Những người chui xuống hầm bí mật/ Như mũi tên tẩm độc/ Như tia nắng đi vào bóng đêm/ Như hạt mầm ủ ươm… Bài thơ dài nhưng độ nén căng tràn bật ra, tạo nên cảm xúc một thời chiến đấu đau thương mà hào hùng oanh liệt trước mong manh cái chết nhưng vẫn lạc quan tự tại: Quân thù đến dội bom/ Mặt đất rùng rình sợ/ Dưới lòng hầm khi đó/ Ta đang ngồi làm thơ. Bài thơ Ru con ở hầm, hạnh phúc nẩy mầm trong ác liệt là: Con sinh ra ở rừng/ Rừng thêm bóng mát. Và còn rất nhiều bài thơ khác được sinh ra trong thời điểm chiến tranh mà tôi chưa kịp kiểm đếm.

Cái giai đoạn khốc liệt giũa hòn tên mũi đạn, làn ranh của chiến tranh chực chờ dội xuống những vùng đất hiền lành như cỏ cây những thứ chết chóc. Kẻ thù buộc ta ôm cây súng để tìm ra lẽ sống hòa bình. Đã xuất hiện một giọng thơ Đỗ Nam Cao lãng mạn, nhân văn đầy chất anh hùng ca. Thơ viết trong chiến tranh, trước những nỗi bi thương nhưng với Đỗ Nam Cao có bút pháp trữ tình mang tính nghệ thuật, gần gũi mà sâu sắc. Thơ viết trong chiến tranh của Đỗ Nam Cao đầy sức chiến đấu, chứa đựng những tình cảm cao đẹp của người chiến sĩ văn nghệ giải phóng nhân nghĩa ân tình giữa sống chết mong manh nhưng đầy chất nhân văn.

Sau ngày đất nước thống nhất, người chiến sĩ ấy đã viết tập thơ Dính. Nhà thơ nhà lý luận phê bình Nguyễn Thụy Kha đã viết về Đỗ Nam Cao: “Những năm anh cắn răng lặng lẽ vậy mà vài năm sau, Cao cho ra mắt tập thơ đầu tiên có cái tên rất lạ “Dính”. Quả thật tập thơ hay và lạ. Dính chất chứa xô lệch bao số phận, bao quặn thắt dồn nén trần ai. Là những mãnh vỡ nham nhở ghép lại. Một vỉa hè va vấp của dân đen. Dính cứ thế thầm dính vào bạn bè và những người yêu thơ”. Tiếc rằng tôi không có được tác phẩm này. Tập trường ca bằng thơ lục bát Hỡi cô cắt cỏ là nỗi đau trong thơ anh cũng là nỗi đau số phận con người. Cuộc đời anh ít có niềm vui nên thơ ông cũng xù xì góc cạnh nhưng chứa đựng những cao xanh, không hèn hạ bôi bẩn. Anh về lại nơi ngày xưa một thời đèn sách văn chương, gặp gỡ bạn bè kỷ niệm, những gì thân yêu đầu đời cao quý. Hà nội chiều nay lòng nhao nhác nhớ/ Đường sấu mùa thu xanh tận cuối trời/ Heo may nắng hoe vàng rơm rớm khóc/ Đẹp ướt mi ai hè phố mùa thu/ Nâng chén men say nhẹ mảnh lá chiều/ Gió bỗng liêu xiêu kìa ai dừng lại/ Một cô áo vàng trong cõi nhớ thu riêng. Nhiều người đã viết về mùa Thu nhưng cung bậc trong thơ Đỗ Nam Cao cứ vượt qua sóng gió mà bay bổng mà nhẹ tênh sóng sánh. Có nhà thơ nói rằng, Đỗ Nam Cao ví thơ ông: “Thơ mình như khổ qua mướp đắng, xù xì gai góc như sầu riêng, như mái tóc rậm bết bồng bềnh chưa gội”. Nhưng nếu như thơ ông đắng như khổ qua, xù xì như sầu riêng thì quả là hồng phúc cho thơ. Bởi trong khổ qua mướp đắng là những vị thuốc mát lành dịu vợi nâng đỡ cơ thể làm thắm da đỏ thịt con người cũng như thơ sẽ làm dịu mát tâm hồn bất cứ ai trong bất cứ lúc nào. Nếu thơ anh nhìn xù xì bề ngoài như sẩu riêng ấy nhưng bên trong hương vị hấp dẫn ngon lành vì đó là chất của thơ. Vì đó là thơ anh không khoe mẽ chữ nghĩa, không đánh bóng từ ngữ sáo rỗng vô nghĩa mà chân chất mộc mạc vượt qua chông gai, tạo nên thứ men làm nên thứ rượu thơ là hồn cốt trong chữ nghĩa Đỗ Nam Cao. Thơ anh đầy ắp hương vị mà rất nhiều người vừa thấy đã yêu thích. Nếu như thơ anh bổng bềnh như mái tóc chưa gội thì đẹp chứ sao. Có nhà thơ đã viết: “Nhà thơ Đỗ Nam Cao đã lặng thầm cày bừa trên cánh đồng chữ nghĩa. Ông gieo mầm để có mùa gặt thơ trong cuộc sống đầy gai góc, gian truân, tạo nên những tác phẩm rạo rực tiếng thơ. Ông làm nên trường ca và ẩn mình lặng lẽ ngân nga trong lòng bè bạn nhưng Hội Nhà văn Việt nam bỏ quên ông để sau ba mươi năm sau Đỗ Nam Cao mới được ngồi trên cái ghế nhà văn”. Khi đã ngồi lên rồi chưa được bao lâu ông lại lặng lẽ về miền cát bụi!

 Kỷ niệm mười năm nhà thơ Đỗ Nam Cao về với tổ tiên miền di sản, ông để lại những áng văn chương bằng thơ chất chứa vị đời mà lắng đọng chất Đỗ Nam Cao vang lên những khát vọng. Đỗ Nam Cao đã lọc thơ ra từ xù xì đắng đót, tạo ra nguyên chất của thơ, làm dịu mát khoảng trời chiến tranh và khi đất nước đói nghèo. Ông đã rót vào dòng chảy văn học kháng chiến miền Nam, văn học Việt nam đương thời những dòng thơ lãng mạn cách mạng mà thế hệ trẻ ngày nay khó có điều kiện tạo dựng.

Xin gửi đến ông và gia đình nhà thơ Đỗ Nam Cao, làng Văn Việt Nam lòng biết ơn của tôi với ông. Đó là vào năm 2007 tác phẩm Hai mươi năm sau là tập truyện ngắn và ghi chép đầu tay của tôi được Nhà xuất bản Văn hóa thông tin mời nhà thơ Đỗ Nam Cao biên tập. Đó là điều bất ngờ hân hạnh cho tôi. Sau đó sách in ra tôi tìm gặp ông tại quán văn nghệ 171 Trần Quốc Thảo khi ông đang ngồi với bạn tâm giao nhà thơ Hoàng Trần Cương từ Hà Nội vào. Biết tôi, ông chỉ nói môt câu không thừa không thiếu: “Hai mươi năm sau có mấy truyện đọc được Quỳnh ạ”. Xin chân thành cảm ơn ông lần nữa, chắc rằng nơi cửu tuyền ông sẽ vui khi trên trần gian này còn nhiều người chúng ta, trong đó có tôi đang đọc và nhớ tới nhà văn Đỗ Nam Cao. Bởi thơ ông làm dịu mát khoảng trời chiến tranh và tạo nên chất thơ Dính giữa con người với thơ và làm cho bạn đọc nhớ về trường ca Hỡi cô cắt cỏ của ông mộc mạc chân quê, chân thực phận người nên thơ. Xin chân thành cảm ơn.

 Sài gòn tháng 10/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm