TIN TỨC

Giá của đam mê

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-16 07:12:37
mail facebook google pos stwis
1358 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Những năm học Trường Viết văn Nguyễn Du ở 103 Đê La Thành, Hà Nội, chúng tôi hay ra quán nước chè chén của anh chị Duẩn, Diệp trước cổng trường Đại học Văn hóa uống nước. Lâu ngày thành thân, Trúc Phương được anh chị quý nhất; mỗi lần cần về nhà lấy đồ hay đi đâu vắng, lại nấn ná chờ hắn ra để nhờ trông giúp quán. Và Trúc Phương đặt cuốn sách sang một bên, ngồi ghế ông bà chủ rót nước, lấy thuốc lá cho khách như thật

Nhà văn Trúc Phương

Một lần, quán của anh chị bị đám thanh niên địa phương quậy phá. Nghe anh chị trần tình, Phương nổi máu Lục Vân Tiên, lận lưng khẩu colt 45(*) rồi rủ tôi cùng hai anh bạn nữa đến từng nhà các đối tượng ở phố Giảng Võ cạnh trường truy vấn. Biết là nguy hiểm, tôi vẫn đi theo để xem thằng bạn từng một thời là “Đội trưởng đội Trinh sát vũ trang an ninh thị xã Vĩnh Long” làm ăn thế nào. Thấy hắn khi đến trước mỗi địa chỉ, đàng hoàng gõ cửa nhà, sau đó gọi tên chỉ mặt từng thanh niên (hoặc bố mẹ, nếu thanh niên đó đi vắng) ra nói điều phải trái. Tưởng thế nào cũng có phản ứng, nhưng lạ là nghe Phương nói xong, mấy thanh niên đứa nào cũng len lét như rắn mồng năm, còn bố mẹ chúng thì “Cảm ơn chú!”. Hỏi: “Vì sao mày nói có người nghe, đe có kẻ sợ vậy?” Hắn cười, lát sau buông câu lửng lơ: “Chừng đó thì đã nhằm nhò gì!”. Câu nói nhẹ hều ấy không giúp tôi sáng ra điều gì, nhưng sau này khi biết những chuyện động trời hắn đã từng làm trong chiến tranh, thì thấy quả là danh bất hư truyền.

Dạo ấy, cuối năm 1971, Ban An ninh thị xã Vĩnh Long với quân số hơn một trăm năm mươi người cho các bộ phận, trải qua chiến trận còn lại bốn người (trong đó có hắn) lành lặn, được bố trí tạm vào Đội phòng thủ Thị xã ủy để trú thân. Nơi đóng quân của Đội phòng thủ Thị xã ủy bị địch càn. Phó Bí thư Thị đoàn, một cô gái trẻ bị địch bắn chết trên sông. Vớt được xác cô lên thì đêm đã khuya, hắn được phân công ở lại trông xác. Thương người đồng chí trẻ tuổi hy sinh, Phương lấy chiếc màn duy nhất của mình ra căng trùm lên xác cô gái để ngăn muỗi, còn hắn nằm ngoài. Được một lúc, muỗi kéo đến nhiều như trấu đốt hắn. Không chịu được, hắn liền chui vào màn nằm ké cạnh xác cô gái đánh một giấc ngon lành cho tới tận khi mọi người mang quan tài về… Chuyện sau đó trong một cuộc họp Chị bộ bất thường do anh Phó Chủ nhiệm Văn phòng, người có thâm thù với hắn tổ chức, kiểm điểm hắn về tội “vô kỷ luật, đánh giặc để mượn bàn tay giặc phá hoại căn cứ”. Hắn lập tức lôi từ túi quần ra trái lựu đạn da láng xanh cáu, dằn mạnh lên bàn như đặt cái nhạo rượu chuẩn bị mời mọi người nhậu, mặt đanh lại, mắt sáng quắc, nghiến răng, nghiêm mặt nói: “Tôi cho mấy anh biết, tôi vào Đảng bằng máu của mình chứ không có vay mượn máu của thằng nào. Hãy nhớ cho đấy! Khai trừ hả? Tôi thách mấy anh đó. Giỏi thì các anh cứ việc khai trừ Đảng tôi đi. Khai trừ đi!...”

Đám đông nhốn nháo hốt hoảng tháo chạy khỏi phòng họp, người nào chưa thoát kịp thì ngồi thụp xuống bàn. Riêng anh Phó Chủ nhiệm Văn phòng, kẻ chủ trương tranh thủ lúc đồng chí Bí thư Thị xã ủy đi công tác vắng, họp chi bộ để làm thịt hắn, thoắt cái mất dạng, bỏ cả tập bút và cái túi zết kiểu cách lại trên ghế. Khi đồng chí Bí thư Thị xã ủy trở về, chi bộ tổ chức họp lại. Hắn nghiêm túc nhận thiếu sót và được phân công nhiệm vụ mới là bám vô vùng kềm sát nách thị xã – nơi hắn từng bám trụ - để xây dựng cơ sở quần chúng, lực lượng Biệt động trong lòng nội ô. Từ đó một năm hắn chỉ họp chi bộ ghép với cánh Thị đoàn, Tuyên huấn vài lần, làm việc với cán bộ trên xuống vài lượt, còn thì tự lãnh đạo một chi bộ tại chỗ với mấy tổ quần chúng, nòng cốt cách mạng dưới hệ thống tổ chức, chỉ huy trực tiếp của chính mình. Và hắn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập những chiến công chói lọi, được biểu dương trong toàn tỉnh ngày tổng kết chiến tranh…

“Lấy liều mạng làm căn bản!”, nhận xét vui của chúng tôi về Trúc Phương. Nhưng sống trong đời không thể có một người luôn liều mạng, không sợ ai, không ngán một cái gì. Trúc Phương dù “Đánh quen trăm trận, sức dư… dăm người” vẫn có gót chân Asin, đó là nỗi sợ… bị địch bắt sống. Hỏi vì sao? Vì lo không giữ được khí tiết! Nên chi trong các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc, hắn dành sự kính trọng đặc biệt cho những người sa vào tay giặc mà vẫn vững chí, bền gan. Còn với riêng mình, luôn luôn Phương giữ lại hai viên đạn cuối cùng, để khi lâm trận, nếu tình thế bị địch bắt xuất hiện thì… tự sát cho chắc ăn. Ấy thế mà rồi hai viên đạn cuối cùng ấy cũng có lần hắn không giữ được, phải đem ra xài. Đấy là chuyện ngày 20/4/1969, Phương cùng bốn đồng đội hợp pháp trong nội ô Vĩnh Long thực hiện khống chế tên Trưởng chi cảnh sát thị xã, một ác ôn khét tiếng, bằng trận phục kích táo bạo kẻ địch trên đường về nhà lúc hắn vừa bước xuống xe. Phương tuyên bố:

“Ông sẽ được thả về khi trả lời hết những câu hỏi, thực hiện hết những yêu cầu của bọn tôi”.

Nói lời và giữ lời. Xong việc, các cơ sở nội thành chia tay, trở về vị trí hợp pháp của mình. Một mình Trúc Phương đưa tên Trưởng chi vào vùng lõm Giải phóng còn lại, sau khi giặc đã bình định, chiếm đóng. Đi được một quãng thì bọn địch truy đuổi phía sau. Khi giặc nồ tới, Phương buộc phải nổ súng và lôi tên Trưởng chi chạy trên ruộng (nói thêm, Phương bắn súng rất giỏi. Chuột chạy trên dây, hắn vẫy phát, rơi liền). Bắn hết 14 viên đạn colt 12 ly. Không còn đạn, Phương bắt tên Trưởng chi quỳ xuống thề thực hiện những điều cách mạng yêu cầu, sau đó tha mạng. Tên Trưởng chi không dám tin vào sự thật, cứ lấm lét nhìn lại phía sau, được mươi bước thì vụt chạy về phía bọn lính vừa la í ới ban nãy. Trúc Phương sau đó cũng lặng lẽ bước đi trong mịt mù bóng đêm trở về căn cứ.

“Nếu tên Trưởng chi thực hiện lời hứa của hắn, đồng chí được điểm 10. Nếu hắn không thực hiện thì đồng chí sẽ phạm tội thả cọp về rừng và sẽ có tội với Nhân dân” - Bí thư Thị xã ủy nói sau khi nghe hắn báo cáo công việc.

“Tôi xin bảo lãnh bằng tính mạng của mình” - Phương trả lời người chỉ huy không chút đắn đo.

Cũng may (mà cũng chẳng phải may), mọi yêu cầu của cách mạng về sau đều được tên Trưởng chi cảnh sát thực hiện. Nói chẳng phải may, bởi để tên Trưởng chi giữ chữ tín, những ngày tiếp theo Đội Trinh sát vũ trang an ninh thị xã Vĩnh Long dưới sự chỉ huy của Phương còn phải thực hiện thêm vài nghiệp vụ nữa.

Mùa Xuân 1975, Phương theo một cánh quân về giải phóng Vĩnh Long. Hay tin, bà con xã Long Thanh truyền tai nhau rồi sáng 29/4 ùn ùn kéo đến nhà ông bà Hai để chúc mừng. Bất ngờ một anh chàng ngụy binh người làng rã ngũ trở về, rút trong cạp quần ra một trái lựu đạn ném vô giữa đám đông. Nhanh như cắt, hắn chụp lấy ôm trước ngực, nằm đè lên. Ai nấy đứng tim, tắc thở. Nhưng không có tiếng nổ nào. Thì ra trong lúc vội vàng, anh chàng ngụy binh hàng xóm quên (hay cố tình quên?) rút chốt. May mắn ấy của hắn thuộc loại có một không hai. Và sự may mắn vẫn đi theo để phù hộ hắn, khi sau đó một ngày, ngày 1-5 hắn về tiếp quản thị xã Vĩnh Long. Có một sĩ quan Ngụy ngoan cố không ra trình diện. Ông này có một cây súng nhỏ như cây viết Paker chuyên dùng để ám sát, rất lợi hại. Phương xung phong đi vận động ông sĩ quan. Nhiều người ái ngại, nghĩ hòa bình rồi, đi, chết uổng. Vậy mà nghe Phương nói chuyện một hồi, ông sĩ quan Ngụy đã lấy súng trao Phương rồi vui vẻ ra trình diện. Và Phương sống, trở về.

…“Nói có người nghe”, nhờ vậy những năm tháng hoạt động bí mật ở Vĩnh Long, hắn được nhiều bà con cô bác tin yêu, bảo vệ. Nhưng tin yêu hắn vô điều kiện lại là cô gái lạ đến từ thành phố cảng Hải Phòng tên Nguyễn Thị Minh Nhất, sinh viên Khoa Nga trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội khóa 1976 - 1980. Chả là sau 1975, Phương được cấp trên cho đi học Trường Tuyên huấn Trung ương ở Hà Nội để đào tạo cán bộ nguồn. Trường Tuyên huấn Trung ương và trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ cùng đóng trên địa bàn huyện Từ Liêm, cách nhau một cánh đồng. Ngày nghỉ Phương hay vào đó chơi, tìm đồng hương. Một lần như thế, Phương gặp Nhất. Tình yêu “thiên lôi đánh” giữa hai người nảy sinh. Minh Nhất là một cô gái đẹp. Mà người đẹp như thơ hay, không in báo này, in báo khác, chẳng sợ bị cho vào lai cảo (**). Nhưng cô chọn Trúc Phương, cái anh chàng đi dép râu, đội mũ tai bèo, bận bộ quần áo Tô Châu màu cỏ úa trong lần đầu gặp cô. Nhìn hắn lúc đó, không hiểu sao cô bỗng nhớ đến hình ảnh anh bộ đội trong thơ Chính Hữu: “…Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…” Tính hắn lại phóng khoáng, sẵn sàng tiêu đến đồng tiền cuối cùng trong túi. Khi không còn biết đào đâu ra tiền thì bán nhẫn, bán quần áo, bán tất tật những gì có thể bán được. Bấy lâu Nhất sống trong môi trường mà trong đó mọi người luôn tích cốc phòng cơ, cách sống không cần biết ngày mai của Trúc Phương hút cô như nam châm hút sắt. Về phía Trúc Phương, Minh Nhất xinh đẹp, học thức, là sự bổ sung trọn vẹn cho những gì hắn khao khát. Từ đó không gì có thể ngăn hai người đến với nhau. Họ cưới nhau năm 1980 khi Minh Nhất ra trường và Trúc Phương đang học năm thứ nhất trường Viết văn Nguyễn Du. Lễ thành hôn được tổ chức trong căn phòng tranh tre nứa lá của Trường Viết văn Nguyễn Du, tưởng không gì có thể đạm bạc hơn.

Sau đám cưới, cô dâu cầm quyết định phân công công tác đi thẳng vào Trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ dạy tiếng Nga, chú rể ở lại Hà Nội tiếp tục việc dùi mài kinh sử. Khát kiến thức như khát nước, những tháng năm ở Hà Nội, hắn không bỏ phí chút thời gian nào cho việc học. Đọc hết sách mình thích ở Thư viện trường, Thư viện Quốc gia, vào cả Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội tìm sách đọc thêm. Ngoài những buổi lên lớp, sinh hoạt ngoại trú, xem phim theo chế độ, thời gian còn lại hắn dành cả cho việc đọc trong thư viện, đi thăm, làm quen với các văn nghệ sĩ danh tiếng của đất Thăng Long. Nhiều người bảo hắn điên chữ…

Khóa I trường Viết văn Nguyễn Du kết thúc, Trúc Phương như người đang bay trên mây bỗng đột ngột rơi xuống mặt đất khi trở về “máng cỏ”, nơi đã ra đi. Đây là lúc nỗi đời cay cực giơ nanh vuốt. Trên lý thuyết, hai vợ chồng công chức, có lương, có sổ gạo, tem phiếu theo tiêu chuẩn thì không thể khổ được. Nhưng đất nước thời bao cấp, “Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt” khiến không chỉ vợ chồng Trúc Phương – Minh Nhất khổ, mà tất cả đều khổ. Nhưng Nhất – Phương xem ra khổ hơn. Phương thời chiến mê đánh giặc, thời bình mê chữ nghĩa văn chương, tính trọng nghĩa khinh tài, sinh ra là để làm anh hùng. Nay phải lo những việc tỉ mỉ của cuộc sống gia đình, như chó bị nhốt trong cũi, quay phía nào cũng đụng vách ngăn. Với nhiều người, chạy chọt đó đây để được thêm cân đường, lạng thịt cho con trong bữa cơm hàng ngày là một việc bình thường; với hắn, khó ngang đánh giặc và hèn thì như địt thúi. Vì thế, dù đã rất cố gắng vợ chồng hắn vẫn không sao bằng được người. Và thế là cô nữ sinh Minh Nhất xinh đẹp ngày nào, phải hai lần đằng vân giá vũ sang Nga với đủ thứ lỉnh kỉnh mang theo để tha về những áo bay, bàn là, nồi áp suất, quạt tai voi, dây may so… mà đời sống vẫn không thấy khá lên.

Thời gian trôi, cuộc cờ người thay đổi. Những bạn bè thời trận mạc và bạn đồng môn của hắn ở trường Nguyễn Ái Quốc ngày nào, mấy mươi năm sau một số người trở thành yếu nhân đất nước, như Hai Nghĩa (Trương Vĩnh Trọng) - Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ, Mai Ái Trực – Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường. Yếu nhân cấp tỉnh có Trần Đình Thành – Bí thư tỉnh ủy Đồng Nai, Bé Sáu (Trương Văn Sáu) – Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Long... Còn hắn vẫn vậy. Biết làm sao được khi để thỏa mãn đam mê viết văn, hắn đã thẳng thừng từ chối mọi chức vụ. Một cái chức con con là Chủ tịch Hội Văn Nghệ Vĩnh Long cũng không chịu nhận, bỏ chạy lên Sài Gòn làm anh Trưởng phòng cấp sở, yên tâm lấy sở đoản nuôi sở trường. Mà chuẩn bị cho ngày giải phóng, chức Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Vĩnh Long, Phó Ban Tuyên huấn thị xã Vĩnh Long, chuyên “Nói cho đồng bào tôi nghe” của hắn oách chẳng thua ai trong đám bạn bè từ chinh chiến đi ra. Bù lại hắn có gần hai mươi đầu sách, gồm 9 tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn, 2 trường ca. Đó là những: Cây sầu đâu sinh đôi (tiểu thuyết),1985; Bóng biển (tiểu thuyết), 1985, Bên dòng sông thơ mộng (tiểu thuyết), 1986; Bình minh trong đêm (tiểu thuyết),1986; Cây bời lời bông trắng (tiểu thuyết), 1987; Chân dung của đất (tiểu thuyết), 1988; Swai Chanti và nước mắt (tiểu thuyết), 1989… Đặc biệt, “Mẹ - Đất nước – Lưu dân”, tập trường ca dài hơn hai vạn tám ngàn câu thơ viết về phương Nam với một cảm xúc tràn trề xuất bản năm 2016, mà theo hắn, là “Tác phẩm cuối đời trong niềm hạnh phúc vô bờ giữa những tháng ngày tưởng chừng không thể…” khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư lưỡi.

Chao ôi, cái giá của đam mê!

------

* Sau 1975, cán bộ miền Nam ra Bắc học tập, công tác; nhiều người - không hiểu sao – vẫn được mang theo súng.

** Chế Lan Viên: “Thơ hay như người đẹp, đi đâu về đâu cũng lấy được chồng”.

4-2018

(Bài đăng Tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam số 29 (3548) ra ngày 21-7-2018)

Mời truy cập kỷ yếu nhà văn TRÚC PHƯƠNG.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm