TIN TỨC

Đọc tập thơ ‘Phút giây vĩnh cửu’ của Tần Hoài Dạ Vũ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-01-30 00:15:28
mail facebook google pos stwis
2471 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Thật bất ngờ, vừa vui vừa hãnh diện, khi nhận được tập thơ “Phút giây vĩnh cửu” của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ gởi tặng tôi, do nhân viên bưu điện đem dến. Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đã từng tặng tôi nguyên bộ sách “Văn học Dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng” gồm 4 tập, mỗi tập dày trên 500 trang và một số tập thơ mà ông đã xuất bản trong những năm gần đây. Tôi không ngần ngại khoe ra và nói thật lòng mình, bởi vì tôi chỉ là một cây bút nghiệp dư vô danh, mà ông là một cây đại thụ từ lâu trong nền văn học nước nhà.

 

Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ xuất hiên trên thi đàn từ năm 1963 trên các báo văn học có danh ở miền Nam Việt Nam như Bách Khoa, Văn, Phổ Thông… khi ông còn là chàng học sinh học lớp Đệ Tam (lớp 10) tại trường Quốc Học – Huế. Từ đó đến nay gần 60 năm, nhà thơ vẫn theo con đường sáng tác; lặn lội 30 năm khắp quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng, nghiên cứu văn hóa dân gian để viết nên bộ sách vô cùng giá trị mà hiện nay không thể thiếu trong các thư viện của các trường trung học, đại học.


Tập thơ “Phút giây vĩnh cửu” của Tần Hoài Dạ Vũ.

Phút giây vĩnh cửu là một tập thơ văn xuôi mà theo PGS.TS. Trần Hoài Anh nhận xét là “mang ý nghĩa triết luận của một cảm thức hiện sinh”, là “tuyên ngôn sống và tuyên ngôn sáng tạo” của nhà thơ. Còn Võ Mai Trang viết trong lời Bạt như sau: “Lắng lại trong chiêm nghiệm của tâm hồn, có thể nói rằng, thơ xuôi Tần Hoài Dạ Vũ trong thi phẩm Phút giây vĩnh cửu này, là cuộc hành trình đi tìm bản thể”.

Châu Thạch tôi, không có mấy kiến thức về triết lý, chỉ biết cảm nhận thơ theo con tim bình dân của mình, xin nói thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ trong Phút giây vĩnh cửu là “Một tập nhã ca”. Vì sao tôi nói Phút giây vĩnh cửu, thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ, là “Một tập nhã ca”? Vì đó là một tập thơ có hình thức văn chương cô đọng, có thật nhiều ý tưởng trong mỗi dòng thơ, ngắn gọn, đầy ẩn dụ, đầy ngụ ngôn, có tiếng thơ vang vọng 5 cung trầm bổng “Trong như tiếng hạt…, đục như tiếng suối…, tiếng khoan như gió…, tiếng mau như trời đổ mưa”, khiến cho người đọc thơ có tâm trạng không khác gì Kim Trọng nghe Kiều đàn thuở trước, trong thơ Nguyễn Du.

Phút giây vĩnh cửu có tất cả 50 bài thơ không vần. Không vần không có nghĩa là không trôi chảy. Mỗi bài thơ vẫn trôi chảy như những dòng sông có âm thanh của sóng, âm hưởng của dòng trôi giữa gió giữa trăng, qua ghềnh qua thác và êm đềm khi đến bình nguyên có mé nước bình tịnh bên đồng cỏ xanh tươi!

Đầu tiên, bài thơ Hy vọng của trần gian nhân ái ta đã đọc được:

“Niềm vui của trái tim yêu thương là phép mầu của những đám mây phía chân trời hò hẹn. Em thân yêu, hãy dâng bài ca bất tuyệt cho những niềm vui không hẹn trước và hãy đặt lòng em trước ngưỡng cửa của những ước mơ như mây trắng trên trời”… “Tôi đương đi trên con đường dài và tôi luôn thấy ánh sáng của trái tim em”.

Bài thơ cho ta một niềm hy vong lãng mạn tuyệt vời, không là tiền tài danh vọng mà là “Em”. Em là ánh sáng lý tưởng nhân ái của đời anh trong kiếp sống trần gian.

Bài thơ thứ 19 – Mùa xuân đi qua, Tần Hoài Dạ Vũ đã thổ lộ: “Với tất cả nỗi đau dày vò anh nhớ tới em”. Nhà thơ dã yêu em bằng danh dự: “Chưa bao giờ bày tỏ lời tán tụng trước những kẻ quyền lực. Đó chẳng phải là niềm kiêu hãnh vinh danh con người?”. Nhà thơ yêu em bằng trách nhiệm; “Không hề chối bỏ những gì có liên hệ đến đời nhau”. Nhà thơ yêu nhau bằng thủy chung: “Chẳng có nhan sắc nào còn làm trái tim anh xao xuyến, cũng chưa hề có nụ hôn nào khiến anh phải đắm say”. Nhà thơ yêu như thế, nhưng đời thật là phi lý khi “Em đã ra đi, những chiếc hoa kèn thổi mãi tiếng u buồn trong khu vườn vắng, chuỗi cười trong suốt ngày nào đã tắt trong niềm quên lãng và mắt em đã lặn rồi vì sao kỷ niệm. Có bao giờ tình yêu không là nỗi đắng cay?”.

Đọc bài thơ như thẩm thấu vào lòng ta tiếng thở dài cao thượng!

Bài thơ áp chót là bài thơ có tựa đề lấy làm tựa đề của cả tập thơ Phút giây vĩnh cửu. Phút giây là thời gian ngắn, vĩnh cửu là thời gian vô tận. Phút giây mà gọi là vĩnh cửu thì nghe ra tương phản. PGS.TS Trần Hoài Anh trong “Lời Giới thiệu” đã giải thích như sau: “Nhưng là sự tương phản mang tính biện chứng, đặt ra cho người đọc nhiều vấn đề suy nghiệm về thế sự, nhân sinh, về sinh mệnh của thơ”. Châu Thạch tôi nghĩ thô thiển: Phút giây vĩnh cửu là cái phút giây đem đến cho nhà thơ hiểu được, chứng được, ngộ được giá trị vĩnh viễn của cuộc đời.

Vào đề bài thơ Phút giây vĩnh cửu Tần Hoài Dạ Vũ đã viết:

“Tôi không nhớ tôi đã bắt đầu yêu em tự bao giờ. Chỉ biết rằng lòng tôi thổn thức trước gương mặt ẩn hiện cả nỗi đau thương thầm lặng của cuộc đời”. Vậy em ở đây không chỉ là người nữ, mà em ở đây mang hình ảnh niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời. Nhà thơ yêu em như yêu cuộc đời và yêu cuộc đời như yêu em.

Đoạn giữa của bài thơ, nhà thơ viết những câu thơ như sau:

“Đôi môi em ngào ngạt hương hoa hồng, thơm lừng hơn sửa mật, em xinh đẹp biết bao. Này người bạn đời không hôn ước, em tươi đẹp biết bao. Mắt em là mặt biển dậy sóng, miệng em là hương rừng nồng cay, ngực em là hai chùm nho óng ả, rốn em là cốc rượu đầy ắp đắm say”, “hai đầu gối em là hai viên đá quý”… “Tôi đánh mất cả thế giới – hiểu vì sao mình đánh mất – và tự nguyện lao vào ân sủng của tình em.”

Với đoạn thơ tôn vinh em ở trên, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đã viết hoàn toàn một cung nhã ca đầy ảnh tượng lung linh với chữ nghĩa lưu ly màu kim cương. “Em” ở đây không là em bé bỏng mà là em của thiên nhiên, là em của cuộc đời, cũng có thể là em của tạo hóa, là giáo chủ, là cao siêu, là chân lý…

Cuối bài thơ, Tần Hoài Dạ Vũ viết:

“Tình yêu đã phát sinh sự hợp nhất, vẻ dịu dàng, điều thiện, cái đẹp và cả sự viên mãn.

Có bao giờ tôi đã dại khờ nghi ngờ tình yêu? Em là nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức mạnh cho chính phút giây yếu đuối của đời tôi”.

Đến đây, bây giờ, không còn nghi ngờ gì nữa, Tần Hoài Dạ Vũ đã công nhận em chính là “Thượng Đế”, vì em là “Nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức mạnh cho chính phút giây yếu đuối” của đời nhà thơ.

Trong lời Bạt đặt ở cuối sách, Võ Mai Trang đã viết: “Thơ xuôi Tần Hoài Dạ Vũ trong thi phẩm ‘Phút giây vĩnh cửu’ này là cuộc hành trình đi tìm bản thể. Cuộc hàng trình ấy, chuyến đi tưởng như nhẹ nhàng mà khổ ải ấy, có thể không bao giờ đến, nhưng có hề chi”.

Châu Thạch tôi nghĩ khác, Tần Hoài Dạ Vũ đã đến!

PGS.TS Trần Hoài Anh đã viết: “Tập thơ ‘Phút giây vĩnh cửu’ của Tần Hoài Dạ Vũ, vì thế, là cuộc hành trình đi tìm cái tôi bản thể của một thi sĩ đã chọn thơ và tình yêu như một ‘tôn giáo’ để ‘sống’ và ‘thành đạo’ trong cuộc đời”.

Từ đó, Châu Thạch tôi nghĩ, Tần Hoài Dạ Vũ đã khởi đầu cuộc hành trình từ 60 năm trước: “Anh đi xa trên con đường dài của sự sống, của niềm vui sáng tạo và tiếng chim hót bên trời”. Đi để tìm em là niềm hy vọng như đi tìm bản thể của mình: “Phải rồi, trái tim em là ánh sáng, đôi mắt em và bàn tay từ ái của em cũng là ánh sáng luôn chiếu dọi đời anh” (Hy vọng của trần gian nhân ái). Và rồi, Tần Hoài Dạ Vũ đã tìm được chính bản thể của mình, đó là tình yêu dành cho em, cũng chính là ngộ được “lẽ đạo của thơ và tình yêu” để sống: “Em là nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức manh cho chính phút giây yếu đuôi của đời anh” (đoạn cuối của bài thơ Phút giây vĩnh cửu).

Người có tôn giáo trông cậy điều đó vào giáo chủ của mình, còn Tần Hoài Dạ Vũ trông cậy điều đó vào em, nghĩa là cuộc hành trình của nhà thơ đã đến đích mà ông hằng mơ ước, thành đạo trong cõi thơ và sống với tình yêu mà ông dành riêng và trọn cho em.

C.T

Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ xuất hiên trên thi đàn từ năm 1963 trên các báo văn học có danh ở miền Nam Việt Nam như Bách Khoa, Văn, Phổ Thông… khi ông còn là chàng học sinh học lớp Đệ Tam (lớp 10) tại trường Quốc Học – Huế. Từ đó đến nay gần 60 năm, nhà thơ vẫn theo con đường sáng tác; lặn lội 30 năm khắp quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng, nghiên cứu văn hóa dân gian để viết nên bộ sách vô cùng giá trị mà hiện nay không thể thiếu trong các thư viện của các trường trung học, đại học.


Tập thơ “Phút giây vĩnh cửu” của Tần Hoài Dạ Vũ.

Phút giây vĩnh cửu là một tập thơ văn xuôi mà theo PGS.TS. Trần Hoài Anh nhận xét là “mang ý nghĩa triết luận của một cảm thức hiện sinh”, là “tuyên ngôn sống và tuyên ngôn sáng tạo” của nhà thơ. Còn Võ Mai Trang viết trong lời Bạt như sau: “Lắng lại trong chiêm nghiệm của tâm hồn, có thể nói rằng, thơ xuôi Tần Hoài Dạ Vũ trong thi phẩm Phút giây vĩnh cửu này, là cuộc hành trình đi tìm bản thể”.

Châu Thạch tôi, không có mấy kiến thức về triết lý, chỉ biết cảm nhận thơ theo con tim bình dân của mình, xin nói thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ trong Phút giây vĩnh cửu là “Một tập nhã ca”. Vì sao tôi nói Phút giây vĩnh cửu, thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ, là “Một tập nhã ca”? Vì đó là một tập thơ có hình thức văn chương cô đọng, có thật nhiều ý tưởng trong mỗi dòng thơ, ngắn gọn, đầy ẩn dụ, đầy ngụ ngôn, có tiếng thơ vang vọng 5 cung trầm bổng “Trong như tiếng hạt…, đục như tiếng suối…, tiếng khoan như gió…, tiếng mau như trời đổ mưa”, khiến cho người đọc thơ có tâm trạng không khác gì Kim Trọng nghe Kiều đàn thuở trước, trong thơ Nguyễn Du.

Phút giây vĩnh cửu có tất cả 50 bài thơ không vần. Không vần không có nghĩa là không trôi chảy. Mỗi bài thơ vẫn trôi chảy như những dòng sông có âm thanh của sóng, âm hưởng của dòng trôi giữa gió giữa trăng, qua ghềnh qua thác và êm đềm khi đến bình nguyên có mé nước bình tịnh bên đồng cỏ xanh tươi!

Đầu tiên, bài thơ Hy vọng của trần gian nhân ái ta đã đọc được:

“Niềm vui của trái tim yêu thương là phép mầu của những đám mây phía chân trời hò hẹn. Em thân yêu, hãy dâng bài ca bất tuyệt cho những niềm vui không hẹn trước và hãy đặt lòng em trước ngưỡng cửa của những ước mơ như mây trắng trên trời”… “Tôi đương đi trên con đường dài và tôi luôn thấy ánh sáng của trái tim em”.

Bài thơ cho ta một niềm hy vong lãng mạn tuyệt vời, không là tiền tài danh vọng mà là “Em”. Em là ánh sáng lý tưởng nhân ái của đời anh trong kiếp sống trần gian.

Bài thơ thứ 19 – Mùa xuân đi qua, Tần Hoài Dạ Vũ đã thổ lộ: “Với tất cả nỗi đau dày vò anh nhớ tới em”. Nhà thơ dã yêu em bằng danh dự: “Chưa bao giờ bày tỏ lời tán tụng trước những kẻ quyền lực. Đó chẳng phải là niềm kiêu hãnh vinh danh con người?”. Nhà thơ yêu em bằng trách nhiệm; “Không hề chối bỏ những gì có liên hệ đến đời nhau”. Nhà thơ yêu nhau bằng thủy chung: “Chẳng có nhan sắc nào còn làm trái tim anh xao xuyến, cũng chưa hề có nụ hôn nào khiến anh phải đắm say”. Nhà thơ yêu như thế, nhưng đời thật là phi lý khi “Em đã ra đi, những chiếc hoa kèn thổi mãi tiếng u buồn trong khu vườn vắng, chuỗi cười trong suốt ngày nào đã tắt trong niềm quên lãng và mắt em đã lặn rồi vì sao kỷ niệm. Có bao giờ tình yêu không là nỗi đắng cay?”.

Đọc bài thơ như thẩm thấu vào lòng ta tiếng thở dài cao thượng!

Bài thơ áp chót là bài thơ có tựa đề lấy làm tựa đề của cả tập thơ Phút giây vĩnh cửu. Phút giây là thời gian ngắn, vĩnh cửu là thời gian vô tận. Phút giây mà gọi là vĩnh cửu thì nghe ra tương phản. PGS.TS Trần Hoài Anh trong “Lời Giới thiệu” đã giải thích như sau: “Nhưng là sự tương phản mang tính biện chứng, đặt ra cho người đọc nhiều vấn đề suy nghiệm về thế sự, nhân sinh, về sinh mệnh của thơ”. Châu Thạch tôi nghĩ thô thiển: Phút giây vĩnh cửu là cái phút giây đem đến cho nhà thơ hiểu được, chứng được, ngộ được giá trị vĩnh viễn của cuộc đời.

Vào đề bài thơ Phút giây vĩnh cửu Tần Hoài Dạ Vũ đã viết:

“Tôi không nhớ tôi đã bắt đầu yêu em tự bao giờ. Chỉ biết rằng lòng tôi thổn thức trước gương mặt ẩn hiện cả nỗi đau thương thầm lặng của cuộc đời”. Vậy em ở đây không chỉ là người nữ, mà em ở đây mang hình ảnh niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời. Nhà thơ yêu em như yêu cuộc đời và yêu cuộc đời như yêu em.

Đoạn giữa của bài thơ, nhà thơ viết những câu thơ như sau:

“Đôi môi em ngào ngạt hương hoa hồng, thơm lừng hơn sửa mật, em xinh đẹp biết bao. Này người bạn đời không hôn ước, em tươi đẹp biết bao. Mắt em là mặt biển dậy sóng, miệng em là hương rừng nồng cay, ngực em là hai chùm nho óng ả, rốn em là cốc rượu đầy ắp đắm say”, “hai đầu gối em là hai viên đá quý”… “Tôi đánh mất cả thế giới – hiểu vì sao mình đánh mất – và tự nguyện lao vào ân sủng của tình em.”

Với đoạn thơ tôn vinh em ở trên, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đã viết hoàn toàn một cung nhã ca đầy ảnh tượng lung linh với chữ nghĩa lưu ly màu kim cương. “Em” ở đây không là em bé bỏng mà là em của thiên nhiên, là em của cuộc đời, cũng có thể là em của tạo hóa, là giáo chủ, là cao siêu, là chân lý…

Cuối bài thơ, Tần Hoài Dạ Vũ viết:

“Tình yêu đã phát sinh sự hợp nhất, vẻ dịu dàng, điều thiện, cái đẹp và cả sự viên mãn.

Có bao giờ tôi đã dại khờ nghi ngờ tình yêu? Em là nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức mạnh cho chính phút giây yếu đuối của đời tôi”.

Đến đây, bây giờ, không còn nghi ngờ gì nữa, Tần Hoài Dạ Vũ đã công nhận em chính là “Thượng Đế”, vì em là “Nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức mạnh cho chính phút giây yếu đuối” của đời nhà thơ.

Trong lời Bạt đặt ở cuối sách, Võ Mai Trang đã viết: “Thơ xuôi Tần Hoài Dạ Vũ trong thi phẩm ‘Phút giây vĩnh cửu’ này là cuộc hành trình đi tìm bản thể. Cuộc hàng trình ấy, chuyến đi tưởng như nhẹ nhàng mà khổ ải ấy, có thể không bao giờ đến, nhưng có hề chi”.

Châu Thạch tôi nghĩ khác, Tần Hoài Dạ Vũ đã đến!

PGS.TS Trần Hoài Anh đã viết: “Tập thơ ‘Phút giây vĩnh cửu’ của Tần Hoài Dạ Vũ, vì thế, là cuộc hành trình đi tìm cái tôi bản thể của một thi sĩ đã chọn thơ và tình yêu như một ‘tôn giáo’ để ‘sống’ và ‘thành đạo’ trong cuộc đời”.

Từ đó, Châu Thạch tôi nghĩ, Tần Hoài Dạ Vũ đã khởi đầu cuộc hành trình từ 60 năm trước: “Anh đi xa trên con đường dài của sự sống, của niềm vui sáng tạo và tiếng chim hót bên trời”. Đi để tìm em là niềm hy vọng như đi tìm bản thể của mình: “Phải rồi, trái tim em là ánh sáng, đôi mắt em và bàn tay từ ái của em cũng là ánh sáng luôn chiếu dọi đời anh” (Hy vọng của trần gian nhân ái). Và rồi, Tần Hoài Dạ Vũ đã tìm được chính bản thể của mình, đó là tình yêu dành cho em, cũng chính là ngộ được “lẽ đạo của thơ và tình yêu” để sống: “Em là nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức manh cho chính phút giây yếu đuôi của đời anh” (đoạn cuối của bài thơ Phút giây vĩnh cửu).

Người có tôn giáo trông cậy điều đó vào giáo chủ của mình, còn Tần Hoài Dạ Vũ trông cậy điều đó vào em, nghĩa là cuộc hành trình của nhà thơ đã đến đích mà ông hằng mơ ước, thành đạo trong cõi thơ và sống với tình yêu mà ông dành riêng và trọn cho em.

C.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm